30 Tháng 4 Năm 2017
Saturday, March 4, 2017
Tuesday, February 21, 2017
SUY GẨM về ngày QUỐC HẬN 30 tháng 4
Lời
phi lộ của tác giả: Tác giả không hề quen
biết Tổng Thống Ngô Đình Diệm, cũng không phải thành viên của một đảng phái
chính trị nào hay có liên hệ gì với những tổ chức của ông Ngô Đình Nhu hay gia
đình họ Ngô. Tác giả cũng không phải tín đồ của Thiên Chúa giáo, Phật giáo, Cao
Đài giáo, Hòa Hảo giáo, v.v…, mà theo đạo thờ phượng ông bà. Tác giả chỉ là một
người lính già của QLVNCH và rất hảnh diện về QLVNCH dù có một số ít tướng lảnh
bất xứng, thiếu học vấn, thiếu hiểu biết, thiếu tư cách, thiếu danh dự, thiếu
tinh thần quốc gia dân tộc và thiếu cả khả năng lảnh đạo hay chỉ huy (tại sao họ
lên được cấp tướng là một điều khó hiểu) . Bài viết này chỉ là suy gẩm riêng tư của
tác giả dựa vào sự hiểu biết cá nhân, kinh nghiệm bản thân, so
sánh, suy luận, đánh giá và kiểm chứng tài liệu đăng trên sách, báo, tài liệu
đã được giải mật trên internet và trong thư viện công cộng… chứ
không phản ảnh ý nghĩ hay tư tưởng của bất cứ hội đoàn nào hay tổ chức nào.
Đã là suy gẩm riêng tư thì phải đúng với tác giả, nhưng không nhất thiết phải
đúng với tất cả mọi người, còn đồng ý hay không với tác giả là quyền của đọc giả.
Không có ai sai hết (mỗi người đều đúng với cách suy nghĩ riêng của cá nhân mình).
Những dòng viết trong “…” là lời nói hay dẫn chứng tài liệu tham chiếu hay tham
khảo, còn những dòng viết trong (…) hay [...] là giải thích, ghi chú, nhận xét
hay ý nghĩ riêng của tác giả, chứ không phải của tài liệu tham chiếu hay tham
khảo. Khi nói tới một quốc gia, tác giả chỉ muốn đề cập tới chính phủ đương thời
hay nhà cầm quyền đương thời của quốc gia đó (trong lúc sự việc đang xảy ra) chứ
không phải dân chúng của quốc gia đó [thí dụ như khi nói tới Trung Cộng, Mỹ,
hay Việt Cộng (CSVN hay CSBV vì là quân xâm lăng CS xuất phát từ BV, nhưng
không phải đồng bào BV, vì đồng bào BV cũng như đồng bào NV đền là nạn nhân của
CSBV mà thôi, thực chất của CSBV là quân ngoại xâm nên mới tàn ác dã man và vô
nhân đạo đối với dân chúng Việt Nam (BV và NV), (CSBV phải khác chủng tộc với
nhân dân Viêt Nam mới có thể hành xử tàn nhản như vậy), tác giả không phải ám
chỉ nhân dân Trung Quốc, dân chúng Hoa Kỳ hay đồng bào Việt Nam…]. Ngoài
ra, tác giả cũng không cố ý hài tội hay kể công của bất cứ cá nhân nào, hay chính
phủ nào, mà chỉ nêu lên và dựa trên những sự kiện có thật để so sánh và kết luận
thành suy gẫm riêng tư của tác giả . Xin đa tạ.
Bài viết này gồm những
phần sau:
A.
Sơ qua về lịch sử cận đại liên quan tới
Việt Nam
I.
Hiệp định Geneve 1954
II.
Hiệp định Paris 1973
B.
Nguyên nhân đưa đến việc bức tử VNCH:
I.
Áp lực từ bên ngoài: CSBV và Khối CS quốc
tế
II.
Áp lực từ bên trong:
a. Đồng
minh Mỹ
1-37.
Áp lực, hành động, thái độ và lời nói tiêu biểu
38. Cộng đồng tị nạn Việt Nam có nên cám
ơn và vinh danh Đê Thất Hạm Đội và Chiến dịch “Ngọn gió thường xuyên”
(Operation “Frequent Wind”) ?
b. VNCH
1. Đảo
chánh
2. Vài
nhận xét về Tổng Thống Ngô Đình Diệm của bạn và thù.
C.
Suy gẫm về ngày Quốc Hận 30/04/1975.
D.
GHI CHÚ: Tại sao tác giả không muốn nhắc tới Đệ Nhị Cộng
Hòa
A… Tìm hiểu lịch sử cận
đại, ta thấy:
*. Nước Việt Nam bị
chia đôi theo Hiệp Định Geneve ngày 20 tháng 07 năm 1954 là do sáng kiến của Thủ
Tướng Pháp Mendes France (góc Do Thái và chỉ làm thủ tướng Pháp trong 7 tháng
rưởi) để chấm dứt chiến tranh Đông Dương sau khi quân Pháp thua trận Điện Biên
Phủ ngày 07 tháng 05 năm 1954.
*. VNCH bị mất vào tay
CSBV là do sáng kiến của ngoại trưởng Mỹ Henry Kissinger (cũng góc Do Thái) với
Hiệp Định Paris ngày 27 tháng Giêng năm 1973, để chấm dứt chiến tranh Việt Nam
hay đúng hơn là để quân Mỹ rút ra khỏi Việt Nam mà không bị mất thể diện hay
danh dự.
*. Tại Philippines, Đài
Loan, Nam Hàn, Nam Phi, Chile…thì Tự Do
và Dân Chủ (đối với Mỹ) là mục tiêu xứng đáng để chiến đấu, nhưng lại không xứng
đáng để bảo vệ tại Việt Nam! (lý lẻ của kẻ mạnh?). Thật ra (theo CNN Money) thì
Mỹ thiếu nợ (tính bằng Mỹ kim)
Philippines: 39 tỷ
Đài Loan: 186 tỷ
Nam Hàn: 51 tỷ
Nam Phi: 14 tỷ
Chile: 29 tỷ
Việt Nam: < O
Vì vậy, vừa ký xong Hiệp
Định Paris 1973 ngày 27 tháng 01, 1973 bỏ rơi VNCH (không
phải là chủ nợ mà là con nợ của Mỹ) thì cặp bài trùng Nixon-Kissinger,
cũng trong năm 1973, từ ngày 14 tháng 10, 1973 tới ngày 14 tháng 11, 1973, lập
cầu không vận lớn nhất thế giới để cứu Do Thái
(một trong những chủ nợ của Mỹ) đang bị các nước của khối Á rạp tấn công (giống
như VNCH đang bị CSBV tấn công… nhưng bị Mỹ bỏ rơi). Trong 32 ngày đêm liên tiếp,
cầu không vận của Nixon-Kissinger đã kịp thời tiếp tế 22,325 tấn chiến cụ và
quân cụ gồm chiến xa, đại bác, phi cơ, hỏa tiển, đạn dược và tiếp liệu cho Do
Thái (nếu không, Do Thái có thể cùng chung số phận với VNCH). [Theo Tổng Thống
Nixon (No More Vietnam) thì trong 700 triệu viện trợ cho VNCH năm 1975, Mỹ tính
tiền chuyên chở (shipping fees) khoảng phân nửa]. Cầu không vận “Cỏ Kền”
(Operation Nickel Grass) chuyên chở 22,325 tấn chiến cụ có phải là phương tiện“chuyên
chở” (shipping mode) không, và chi phí bao nhiêu? (đây là “Overnight Air Shipping”,
mắc hơn gấp bội so với “Normal Sea Shipping” cho Việt Nam). Nếu tính tiền shipping
cho Do Thái thì riêng chi phí shipping không thôi cũng nhiều hơn gấp mấy lần tiền
viện trợ nguyên một năm (1975) cho Việt Nam!
Tướng George Brown, Chủ tịch Bộ Tham Mưu Liên
Quân của Mỹ (tương đương với Tổng Tham Mưu Trưởng của QLVNCH) suýt bị bắt buộc
phải về hưu vì đã nhận xét về cầu không vận này, ông cho rằng:
“Sở dỉ nước Do Thái nhận được tiếp
tế quân sự của Hoa Kỳ (mà VNCH không nhận được!) là vì người Do Thái kiểm soát
hệ thống ngân hàng của Hoa Kỳ”
(chưa kể Kissinger, người
Do Thái, kiểm soát Bộ Ngoại Giao của Hoa kỳ) [theo Wikipedia viết về Cầu Không
Vận có tên là Chiến dịch “Cỏ kền” (Operation Nickel Grass)]. (thêm một bằng chứng
nữa về “lý lẻ của kẻ mạnh bao giờ cũng đúng”: Bỏ rơi VNCH và cứu Do Thái” trong
khi cả hai đều đang bị địch tấn công! Chỉ cần $300 triệu để cứu mấy chục triệu
dân Việt Nam, nhưng Mỹ từ chối, trong khi Mỹ phải bỏ ra hàng mấy tỉ đô la để cứu
4 triệu dân Do Thái). Theo CNN Money thì Mỹ thiếu nợ của Do Thái 21 tỷ Mỹ kim. Có
thể đây là cách trả nợ theo lối Mỹ?
Dường như vận mạng của
nước Việt Nam là do hai (02) người góc Do Thái định đoạt? Nước Mỹ cũng vậy thôi
[theo nhận xét của tướng George Brown trên đây, nhưng do nhiều hơn hai (02) người
Do Thái] (Mỹ còn nợ của Do Thái tới 21 tỷ Mỹ kim (theo CNN Money).
Trong quá khứ, Việt Nam
có thù hằn hay ân oán gì với Do Thái mà “quả báo nhản tiền”?
B. NGUYÊN NHÂN ĐƯA ĐẾN VIỆC BỨC TỬ VNCH
Trở lại Hiệp Định
Geneve ngày 20 tháng 07 năm 1954 chia đôi nước Việt Nam: Miền Bắc vĩ tuyến 17
(sông Bến Hải) theo chế độ Cộng Sản (tạm gọi là miền Bắc, BV hay CSBV). Miền
Nam vĩ tuyến 17 theo chế độ Tự Do (không Cộng Sản) (tạm gọi là miền Nam, NV hay VNCH).
I.
Áp lực bên ngoài: (CSBV) Suốt chín (09) năm sau đó (từ
năm 1954 tới năm 1963), trong lúc miền Nam lo định cư cả triệu dân di cư từ miền
Bắc chạy trốn Cộng Sản, kiến thiết quốc gia, cải tổ hành chánh và học vấn, dành
lại chủ quyền trong tay người Pháp, dẹp “loạn sứ quân” và “phong kiến”, diệt “
bọn tay sai của thực dân Pháp”, thành lập chính thể Cộng Hòa (Việt Nam Cộng
Hòa, VNCH), bầu quốc hội Lập Hiến và Lập Pháp, tăng gia sản xuất đem lại đời sống
sung túc, thanh bình và tươi thắm cho dân chúng miền Nam qua các chương trình
kiến thiết quốc gia, phát triển kinh tế và mở rộng ban giao quốc tế…thì miền Bắc
(được khối CS, nhứt là Nga Sô và Trung Cộng, viện trợ ào ạt, khuyến khích, chỉ
thị v.v…) luôn luôn tìm cách phá rối, khủng bố, ám sát và tấn công miền Nam với
ý đồ xâm chiếm miền Nam bằng vũ lực (tạm gọi là “giòi bên ngoài”).
“Giòi bên ngoài” thì
cho tới bây giờ, gần như ai trong chúng ta cũng đều biết (Mặt Trận Giải Phóng
Miền Nam, Chính Phủ Trung Lập, Chính Phủ Ba Thành Phần, Chính Phủ Cách Mạng Lâm
Thời Miền Nam Việt Nam, Chính Phủ Hòa Giải Dân Tộc, v.v…, Tết Mậu Thân (1968),
Mùa Hè Đỏ Lữa (1972), Tháng Tư Đen (1975), v.v…
II.
Áp Lực bên trong: Ngoài áp lực của CSBV thường xuyên đè nặng
trên lảnh thổ miền Nam, chính phủ VNCH còn phải đối đầu với một áp lực còn nặng
hơn gấp bội áp lực của CSBV. Đó là áp lực của Đồng Minh Hoa Kỳ. Áp lực của CSBV
ở bên ngoài (“giòi bên ngoài”), còn áp lực của Mỹ ở bên trong (tạm gọi là “giòi
bên trong” hay “giòi trong ruột giòi ra”).
Áp lực từ bên trong (giòi
trong ruột giòi ra) thì ít người được biết (ngoại trừ những tay sai bản xứ).
Chính tác giả cũng không biết nhiều về áp lực này trước năm 1975 (chỉ suy luận
và đoán mò thôi, không có bằng chứng nào cả). Nhưng 30 năm sau 1975, tài liệu mật
được giải mật, xuất hiện đầy trên internet và thư viện công cộng, tác giả tìm
hiểu được nhiều ẩn số của “giòi trong ruột giòi ra” sau đây đã được phân tách,
so sánh, kiểm chứng, và kết luận…có thể
tin được, xin chia sẻ cùng đọc giả.
“giòi trong ruột giòi
ra” (áp lực từ bên trong của VNCH) thì nguy hiểm hơn nhiều so với “giòi bên ngoài”
và rất khó trị vì chỉ cần sơ xuất một chút là có thể mất mạng.
“Giòi trong ruột giòi
ra” gồm 2 loại: giòi Đồng Minh Mỹ và giòi Việt Nam.
a.
GIÒI ĐỒNG MINH MỸ:
1. Mặc dù trên danh nghĩa, Mỹ là Đồng
Minh lớn nhất, lâu đời nhất (20 năm) và quan trọng nhất của VNCH, nhưng trên thực
tế, chưa bao giờ Mỹ xem VNCH là đồng minh của họ, ngang hàng với họ, có chủ quyền,
mà chỉ xem VNCH như một nước bị bảo hộ, ăn xin, nhận viện trợ của họ và phải nhận
sự chỉ huy của họ [“Who pays, commands” (xin tạm dịch: “Ai chi (trả) tiền
thì người đó chi huy) (lời tuyên bố trịch
thượng của Tướng O’Daniel, Trưởng phái bộ Viện Trợ Quân Sự Mỹ ở Việt Nam).
Tổng
thống Nixon của Mỹ ra tối hậu thư cho Tổng Thống Thiệu của VNCH là nếu VNCH
không chịu ký tên vào Hiệp Định Paris thì Mỹ sẽ đơn phương ký tên vào Hiệp Định
đó (Hiệp Định Hoà Bình về Việt Nam mà không cần chữ ký của Saigon mà chỉ cần chữ
ký của Washington thôi? Như vậy thủ đô của miền Nam có khác gì là Washington?).
Theo
Hiệp Định Paris 1973 thì chỉ có Mỹ và CSBV (chỉ cần 2 thành viên này thôi) mới
có quyền cùng yêu cầu mở lại Hội Nghị Quốc Tế về Việt Nam chứ VNCH và MTGPMN
không có quyền cùng yêu cầu như vậy [cần phải có sáu (06) thành viên của Hiệp Định
Paris 1973] (VNCH bị hạ cấp xuống ngang hàng với MTGPMN).
Ngày
26 tháng 04, 1975, Kissinger đánh điện cho Đại Sứ Martin của Mỹ ở Việt Nam như
sau:
“Bất cứ cuộc thảo luận nào cũng phải
giữa Hoa Kỳ và Bắc Việt chứ không phải giữa Saigon và Hà nội…Và bất cứ cuộc thảo
luận nào cũng phải diển ra tại Paris”
(vì Kissinger có mặt tại đó) (“Chủ quyền” ơi,
ta xin chào “tạm biệt” mi!).
Chỉ
có Tổng Thống Ngô Đình Diệm (TT/NĐD), (dù phải hy sinh tính mạng) mới dám cương
quyết bảo vệ chủ quyền quốc gia và từ chối đề nghị của Đại sứ Mỹ muốn xen vào nội
bộ Việt Nam) và, nhằm bảo tồn chính nghĩa cho VNCH, đã
không chấp nhận cho quân Mỹ đổ bộ vào Việt Nam mà không có một hiệp ước phòng
thủ song phương giữa Mỹ và Việt Nam!
[xin xem đoạn (5) (6) và (7) sau đây].
Do đó, QLVNCH mới có chính nghĩa và tinh thần để chiến đấu chống quân xâm lăng
CSBV.
2. Năm 1961, CIA (Central Intelligence
Agency) của Mỹ cho thành lập Lực Lượng Tự Vệ người Thượng [CIDG: Civilian
Irregular (or Indigenous) Defense Group (Dân Sự Chiến Đấu) (thổ dân hay người Thượng)
và trang bị cho 40,000 người Thượng mà không có sự chấp thuận của Tổng Thống
Ngô Đình Diệm (TT/NĐD xem đó như một sự xâm phạm chủ quyền quốc gia miền Nam,
vì 40,000 người Thượng được trang bị vũ khí đó không chịu sự chỉ huy của
QLVNCH, mà do Mỹ chi huy) (một quân đội trong một quân đội)..
3. Tổng Thống Ngô Đình Diệm (TT/NĐD) tâm
sự với linh mục Cao văn Luận (trong quyển sách “Bên dòng lịch sử Việt Nam”):
(a)* “Tôi muốn vỏ trang đầy đủ cho Bảo An, Dân Vệ, Thanh Niên Chiến Đấu,
Mỹ không chịu” (nhưng tự ý trang bị cho 40,000
người Thượng).
(b)* “Tôi muốn tăng cường quân đội, Mỹ từ chối không cung cấp vũ khí
và phương tiện” (nhưng
tự ý cung cấp vũ khí và phương tiện cho 40,000 người Thượng).“Mỹ
chỉ muốn đưa quân sang Việt Nam mà thôi”
[Lực Lượng Dân Sự Chiến Đấu 40,000 người Thượng vỏ trang (tương đương với bốn
(04) Sư Đoàn Bộ Binh) cũng là quân Mỹ vì do Mỹ thành lập và chi huy để bảo vệ
cho Mỹ vì lúc đó chưa có quân tác chiến Mỹ ở Việt Nam]
4. Theo ông Nguyễn Mậu (xin đừng nhầm với
Đỗ Mậu) thì Tổng Thống Ngô Đình Diệm (TT/NĐD) cho biết:
(a)* “Ta cần thời gian để xây dưng quân đội và kiện toàn tổ chức quốc
gia hầu ứng phó với Công Sản. Các quan hệ chính trị quốc tế vẫn có khả năng kềm
hảm Hà Nội và cho ta thời gian cần thiết. Nhưng người Mỹ không đồng quan điểm với
ta. Họ muốn quân đội Mỹ vào Việt Nam đánh Cộng Sản”.
(TT/NĐD đã cương quyết bảo vệ chủ quyền
và chính nghĩa quốc gia và không chấp thuận để cho quân Mỹ đổ bộ vào Việt Nam mà
không có một hiệp ước phòng thủ song phương giữa Mỹ và VNCH… Người Mỹ đã phải “bước
qua xác chết” của TT/NĐD để thực hiện ý muốn của họ và làm mất miền Nam (hay đúng
hơn là phản bội và bán đứng VNCH cho CSBV để đổi lấy “rút quân trong danh dự”).
(b)* “Ngày người Mỹ bước chân xuống tàu sang Việt Nam cũng là ngày
quân đội Trung Cộng, với chính nghĩa do quân Mỹ dâng cho, đổ vào Việt Nam để
đóng vai hậu bị quân và, nếu cần, bảo vệ miền Bắc cho Hà Nội rảnh tay, động
viên toàn lực vào Nam…”
(Quả đúng như vậy, khi Mỹ đổ hơn 500,000
quân vào Nam Việt Nam thì Trung Cộng cũng đổ 170,000 (khoảng 17 Sư Đoàn) quân
vào Miền Bắc (về phương diện thuần túy quân sự: 170,000
quân tác chiến của TC có lẻ còn nhiều hơn 543,000 quân Mỹ vì
mỗi 1 người lính tác chiến của Mỹ cần tới 4 người yểm trợ, nghĩa là chỉ có 1/5
trong số 543,000 quân Mỹ là quân tác chiến, vị chi là 543,000: 5 = 108,600 quân tác chiến Mỹ và
434,400 quân yểm trợ (chiếm 4/5 tổng số quân Mỹ tại Việt Nam) đóng vai hậu bị
quân và bảo vệ miền Bắc cho Hà nội rảnh tay, động viên toàn lực vào Nam để
“đánh Mỹ cứu nước” (Đang là kẻ
xâm lăng, CSBV được Mỹ giúp trở thành có chính
nghĩa “đánh Mỹ cứu nước”)
còn miền Nam thì mất chính nghĩa và mang tiếng là ngụy quyền, ngụy quân và lính
đánh thuê của Mỹ!)
(c)* “Lính Mỹ đến. Lính Mỹ sẽ không dẹp được du kích Cộng Sản. Lính Mỹ
sẽ không ngăn chận được quân Bắc Việt vào Nam. Lính Mỹ sẽ tạo chính nghĩa và cơ
hội cho quân Trung Cộng xuôi Nam. Lính Mỹ sẽ ra đi và lính Mỹ sẽ để lại xã hội
Việt Nam băng hoại, thui chột đạo đức cổ truyền…”
(sự thật đã được chứng minh)
(d)* “Một Mc Arthur đã thành công ở Triều Tiên trong thế liên hoàn trận
địa chiến, ngược lại họ sẽ thất bại ỡ đây vì hai hình thái chiến tranh khác ngược…”
[Tới năm 1969 thì Mỹ mới bắt đầu biết “du
kích chiến” ở Việt Nam khác xa “trận địa chiến” ở Triều Tiên và không thể thắng
được chỉ với hỏa lực hùng hậu, và Mỹ bắt đầu rút quân]. [trong cuốn sách “Lost
Victory” (Chiến Thắng Đã Mất), trang 60, trùm CIA William Colby thú nhận: “Vì
thiếu kiến thức về bản chất chiến lược của CS, nhiều việc chúng ta làm đã rất
thiếu sót”]
(e)* “Lính Mỹ đến và lính Mỹ sẽ ra đi với miền Bắc ngập tràn quân
Trung Cộng và miền Nam ngập tràn những đứa con lai”
(sự thật đã được chứng minh)
(f)* “ Lính Mỹ đến rồi lính Mỹ sẽ ra đi”.“Ta để cho lính Mỹ đến rồi
khi lính Mỹ ra đi, ta có ra đi theo lính Mỹ chăng? Không! Ta sẽ chết ở đây cho
quê hương. Không! Ta sẽ chết ở đây cho đồng bào ruột thịt, Bắc cũng như Nam”.
(đúng như vậy vì TT/NĐD đã thực sự “vị
quốc vong thân” ngày 02 tháng 11, 1963, máu của TT/NĐD đã nhuộm đỏ sàn chiếc
M113, TT/NĐD đã chết cho đồng bào ruột thịt, chết cho quê hương, chết vì cương
quyết bảo vệ chủ quyền và chính nghĩa quốc gia, chết như một nhà lảnh đạo dám xã
thân vì dân vì nước, chết như một chiến sĩ, chết như một vị anh hùng dân tộc!).
(g)* “Họ (người Mỹ) muốn lật đổ chế độ này để cho lính Mỹ vào Việt
Nam. Việt Nam không cần lính Mỹ mà chỉ cần duy trì các quan hệ chính trị quốc tế
hiện hửu, dành thời gian cho quân lực trưởng thành và tổ chức quốc gia kiện
toàn từ trên xuống dưới”
(nói tới “đảo chánh”, Tổng Thống Diệm trầm
ngâm, lặng yên giây lát, nhìn khói thuốc Bastos xanh nhẹ tỏa và nhếch môi mỉm
cười cay đắng…cho số phận của Tổng Thống một nước nhược tiểu và cho số phận của
chính nước nhược tiểu. Dường như Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã đoán trước vận mệnh
của mình và vận mạng của miền Nam Việt Nam sau khi ông nằm xuống [mất chủ quyền
và chính nghĩa quốc gia và khủng hoảng lảnh đạo (Mỹ nhìn nhận là không còn lảnh
đạo nữa)]…vì
(1) Tổng
Thống Ngô Đình Diệm biết chắc rằng ông sẽ không cho phép quân Mỹ đỗ bộ vào Việt
Nam “vô điều kiện”
(điều kiện đó là một Hiệp ước phòng thủ song
phương ký giữa VNCH và Mỹ như giữa Nam Hàn với Mỹ. Với hiệp ước phòng thủ song
phương thì muốn “Đỗ quân” hay “Rút quân”, phải có sự đồng ý của cả 2 bên về số
lượng, thời lượng, địa điểm đồn trú, nhiệm vụ, tuân hành và lệ thuộc luật pháp của nơi đồn trú…, nhưng Tổng Thống
Kennedy muốn được tự do hành động, không muốn bị ràng buộc bởi một hiệp ước như
vậy), và
(2)
người Mỹ (Tổng Thống Kennedy) sẽ không “tha thứ” cho sự cản trở đỗ quân Mỹ “vô
điều kiện” vào Việt Nam của ông! Mỹ
sẽ loại ông bằng một cuộc đảo chánh và sẽ thay thế ông bằng một người dể bảo hơn!
(mọi việc xảy ra sau đó đã chứng nghiệm những điều
tiên đoán của TT/NĐD)
5. Khi Đại sứ Frederick Nolting của Mỹ
tại Việt Nam đề nghị chia sẻ trách nhiệm với chính quyền Việt Nam (tức muốn can
thiệp vào nội bộ Việt Nam) trong việc phát hoạch những quyết định liên quan đến
các lảnh vực chính trị, kinh tế và quân sự, khi tình hình an ninh đòi hỏi, Tổng
Thống Ngô Đình Diệm cho rằng việc người Mỹ trực tiếp tham dự vào việc phát hoạch
những quyết định của miền Nam Việt Nam coi như một sự trao nhượng chính quyền
cho người Mỹ. Tổng Thống Ngô Đình Diệm trả lời:
(a)* “Chắc ông Đại Sứ cũng hiểu: những vấn
đề ấy đụng chạm tới vấn đề trách nhiệm của chính quyền Việt Nam? Việt Nam không
muốn là một xứ bị bảo hộ” (Vietnam does not want
to be a protectorate) (trích trong “from Trust to Tragedy”, xin tạm dịch là “từ
Tin Cậy đến Thảm Kịch”) của Frederick Nolting (đại sứ Mỹ tại Việt Nam) và “Kennedy
in Vietnam”: “chính sách của Kennedy ở Việt Nam” trang 54)
6. Cũng trong cuốn sách “từ Tin Cậy đến
Thảm Kịch”, Đại sứ Mỹ tại Việt Nam viết: “Cho tới lúc này thì cáo buộc
quan trọng nhất của ông ta (ám chỉ Tổng Thống Ngô Đình Diệm) là người Mỹ can
thiệp vào nội bộ Việt Nam. Ông ta không muốn người Mỹ đoạt lấy trách nhiệm của
Việt Nam. Ông ta không muốn quân lực Mỹ chiến đấu cho nền độc lập và quyền tự
quyết của nhân dân miền Nam Việt Nam”. (TT/NĐD
cương quyết bảo vệ chủ quyền và chính nghĩa quốc gia)
7. Báo cáo của tướng Maxwell Taylor,
Chủ Tịch Bộ Tham Mưu Liên Quân của Mỹ đề ngày 02 tháng 10 năm 1963 cho Tổng Thống
Mỹ Kennedy có đoạn như sau:
“Tổng Thống Diệm không muốn có quân
đội Mỹ đỗ bộ vào Việt Nam mà không có một hiệp ước phòng thủ song phương như Mỹ
đã ký với Nam Hàn, vì làm như vậy thì Việt Nam sẽ mất chủ quyền và sẽ mất luôn
chính nghĩa”.
[TT/NĐD đã “vị quốc
vong thân” vì cương quyết bảo vệ chủ quyền và chính nghĩa quốc gia (Mỹ đã phải
bước qua xác chết của TT/NĐD để tước đoạt chủ quyền và chính nghĩa của VNCH) do
bọn phản quốc dâng cho để lập công!]
8. Việc ký Hiệp ước Geneve 1962 về Ai
Lao (thành lập Chính Phủ Liên Hiệp 3 phe): Tổng Thống Ngô Đình Diệm phản đối,
không muốn ký vì tin rằng Cộng Sản Bắc Việt sẽ dùng Ai Lao làm bàn đạp xâm chiếm
miền Nam (mà Ai Lao không cản nổi), và dọa sẽ không ký vào bản Hiệp ước, khiến
Tổng Thống Kennedy không hài lòng và bực bội nhưng cũng phải đoan quyết rằng
“Lảnh thổ Ai Lao sẽ không được xử dụng
như một căn cứ để can thiệp bằng quân sự và khuynh đảo các nước láng giềng”
[“Kennedy in Vietnam”
(chính sách của Kennedy ở Việt Nam), trang 76] (về sau, CSBV đã thật sự dùng Ai
Lao làm bàn đạp xâm chiếm miền Nam).
9. Những sự việc nói trên khiến cho,
không những chỉ riêng Tổng Thống Kennedy của Mỹ, mà còn các cố vấn của Tổng Thống
Kennedy tại tòa Bạch Ốc như Roger Hilsman và Averell Harriman rất
hung hản và không chấp nhận Tổng Thống (Ngô Đình Diệm) của một quốc gia nhược
tiểu đang ăn mày viện trợ của Mỹ (như Việt Nam) lại được phép xử sự như Tổng Thống
của một quốc gia có chủ quyền [ họ cho là “vô lễ”
hay “phạm thượng” vì Việt Nam không có chủ quyền, nhưng họ chưa tiện công khai
nói ra hay chứng minh bằng hành động với chính phủ Ngô Đình Diệm (họ phải chờ tới
ngày 01 tháng 11, 1963) sau khi “mua” được “một bọn giết mướn đáng nguyền rủa” hay
“những tay sai bản xứ”, để lật đổ, ám sát TT/NĐD, cướp đoạt chủ quyền và làm mất
chính nghĩa quốc gia của VNCH, và cuối cùng làm mất nước.
10. Ngày 24 tháng 01 năm 1973, chỉ một
ngày sau khi Kissinger ký tắt vào bản Hiệp định Paris và về tới Washington, ông
Ehrlichman, Đổng Lý Văn Phòng của Tổng Thống Nixon (viết trong cuốn hồi ký của
ông,“Witness to Power, the Nixon years”, xin tạm dịch: “Nhân Chứng về Quyền lực,
thời Tổng Thống Nixon”) gặp Kissinger ở trước phòng Lincoln trong Tòa Bạch Ốc,
hỏi Kissinger:
“Theo ông, miền Nam Việt Nam có thể
tồn tại được bao lâu nữa?”
Kissinger đáp:
“Tôi nghĩ rằng, nếu họ may mắn thì
được một năm rưởi”
(kể từ ngày 27 tháng 01 năm 1973…số phận Việt Nam đã được an
bày, không cần phải đợi tới ngày 30 tháng 04, 1975 (thời gian từ ngày 27 tháng
01, 1973 đến ngày 30 tháng 04, 1975 là “khoảng cách hợp lý” (“decent interval”
do Mỹ yêu cầu) để Mỹ chạy tội làm mất miền Nam và để đỗ lỗi cho chính quyền
Saigon (của “bọn giết mướn đáng nguyền rủa”) bất lực (dĩ nhiên rồi!)
Điều này cho thấy: “cuộc
xâm lăng bằng vũ lực của CSBV”
chỉ là cái cớ để miền Nam lọt vào
tay CSBV,
chứ thực ra thì Mỹ đã giao miền Nam cho CSBV bằng
Hiệp Định Paris 1973 rồi (từ ngày 27 tháng 01, 1973. Xin xem lời tuyên bố của Đại
sứ Mỹ với Đại sứ Pháp ) cũng giống như 4 lý do đưa ra bởi phe đảo chánh
chỉ là cái cớ (do Mỹ soạn) để lật đổ và giết TT/NĐD để
miền Nam lọt vào tay Mỹ
[Mỹ đã thực sự cai quản
miền Nam sau ngày 01/11/1963 vì tất cả mọi việc đều do Mỹ quyết định, các tướng
lảnh đảo chánh chỉ là tay sai bản xứ (do Mỹ xác nhận) cho tới ngày 27/01/1973
thì Mỹ bàn giao, trên giấy tờ, lại cho CSBV (bằng Hiệp Định Paris 1973) nhưng
phải chờ tới ngày 30/04/1975, Mỹ mới thực sự giao miền Nam cho CSBV sau khi siết
cổ và bức tử VNCH].
Mỹ đạo diển quá dở khi đổ lỗi cho Quốc Hội
Mỹ từ chối 300 triệu để cứu miền Nam vì việc đó đã nằm sẳn trong chương trình
bán đứng miền Nam cho CSBV của Mỹ! Đúng là một trò hề rẻ tiền!
11. Theo Nessen, Phụ Tá Báo Chí của Tổng
Thống Ford thì ngày 30 tháng 3 năm 1975, (một tháng trước tháng 4 đen)
Kissinger trách: “Why don’t these people die fast? The worst thing that could
happen would be for them to linger on” (xin tạm dịch: “Tại
sao “họ” không chết phứt cho rồi? Càng kéo dài thì càng tệ hại hơn thôi, chứ có
ích gì?” [“họ” ở đây là QLVNCH và nhân dân miền
Nam Việt Nam. Kissinger nóng ruột vì đã quá một năm rưởi rồi mà miền Nam Việt
Nam vẫn còn tồn tại (xin xem đoạn (10) trên đây. Kéo dài thì cũng chẳng có ích
gì (đúng!), vì mọi việc (tan hàng của QLVNCH và sụp đổ của miền Nam) đã được an
bày, sắp đặt trước và quyết định rồi! Còn ai biết rỏ hơn
Kissinger? [những lều vải định cư cho người tị nạn
Việt Nam ở Orote Point (đảo Guam) đã được dựng lên ba (03) tháng trước khi có lệnh
đầu hàng của Tổng Thống Dương Văn Minh] (theo lời kể của những phụ nữ Việt Nam
có chồng lính Mỹ đồn trú tại đảo Guam).
Ngày 23 tháng 04, 1975, Tổng Thống Ford của Mỹ
tuyên bố tại trường đại học Tulane (New Orleans):
“Đối với Mỹ, chiến tranh Việt Nam
đã kết thúc rồi” .
Đêm 18 tháng 04, 1975,
Đại sứ Mỹ Martin điện đàm với Đại sứ Pháp Merillon, khẳng định:
“Đối với chính trường nước
Mỹ, chiến tranh Việt Nam đã chấm dứt sau Hiệp Định Paris 1973” (tức sau ngày 27
tháng 01, 1973).
Đại sứ Martin cũng xúc
động than thở với Đại sứ Merillon:
“Với tư cách cá nhân,
tôi hoàn toàn chống lại chủ trương của Hoa Kỳ dành trọn quyền chiến thắng cho
Việt Cộng”
(“Máu và Nước Mắt”,
trang 120-121 của nhà văn quân đội Văn Thanh Hòa).
12. Trong cuốn sách “No more Vietnam”
(“Không còn Việt Nam nữa”) xuất bản năm 1985, Tổng Thống Nixon nhận xét:
“Không nên đòi hỏi quá nhiều
nơi một người lính để chiến đấu dủng cảm khi đạn dược của anh ta chỉ cỏn nhỏ
giọt và đạn dược của đối phương
không bị hạn chế”
“Mức dự trử đạn dược an
toàn cho quân đội của một quốc gia là 60 ngày.
Tháng 2 năm 1975, mức dự trử đạn dược của miền Nam Việt Nam còn
chưa tới 30 ngày. Đến tháng 5 năm
1975 QLVNCH sẽ hết đạn” (No more Vietnam của Nixon), (nếu hạn chế tiêu thụ đạn
như Mỹ đề ra. Nếu không thì tới tháng 3, 1975, QLVNCH sẽ hết đạn) (lúc đó kho đạn
Cát lái và Biên Hòa chưa bị đặc công CS phá hoại). Một trường hợp điển hinh thật
đau lòng: ngày 27 tháng 3 năm 1975, Lử Đoàn thiện chiến147 TQLC
gồm các Tiểu Đoàn 3, 4, 5 và 7 (là những Tiểu Đoàn TQLC đã tái chiếm Cổ thành
Đinh công Tráng) phải hạ súng vì hết đạn
tại bải biển cửa Tư Hiền! Như chúng ta đều biết: TQLC và Nhảy Dù là hai Sư Đoàn
Tổng Trừ Bị hết sức thiện chiến và can trường của QLVNCH , đã lập được nhiều
chiến công hiển hách cho QLVNCH, quân địch nghe danh còn khiếp vía, mà phải
buông súng vì hết đạn thì còn gì chua xót hơn? Để đồng ý và xác nhận điều này,
báo Le Monde của Pháp ra ngày 25 tháng 04 năm 1976 viết về chiến tranh Việt Nam
có đoạn:
“Vũ khí, và chỉ có vũ khí đã định
đoạt số phận của cả một dân tộc” (A.F. Mercier).
Tờ báo Air Force Magazine phát hành tháng 3
năm 1983, nơi trang 3, Tướng Không Quân Mỹ T.R.Milton nhận xét như sau:
“Dù sao thì chúng ta cũng đã bán đứng
đồng minh của chúng ta. Họ đã được chúng ta huấn luyện, họ đã chiến đấu trong
hơn một thập niên với sự tin cậy ở sự yểm trợ của chúng ta. Thế rồi bổng nhiên
họ tự thấy phải đối đầu với cuộc xâm lăng của Bắc Việt mà lại không có đạn,
nhiên liệu và các cơ phận thay thế. Kết quả là Bắc Việt đã có được những người
tiếp tế đáng tin cậy hơn”.
Thật rỏ ràng: “Bỏ rơi
là Phản bội”.
Cũng trong cuốn sách “No more Vietnam”, Tổng
Thống Nixon viết: “Theo bản phân tách khách quan của thế giới:
“Một-chọi-Một”
thì ngưòi lính Nam Việt Nam giỏi hơn người lính Bắc Việt”.
Tờ báo Wall Street
Journal, số phát hành ngày 25 tháng 01 năm 1985, cũng đồng ý như vậy (L/S
O’Brien). Tổng Thống Nixon viết tiếp:
“Quốc hội (Mỹ) đã quay
lưng lại một chính nghĩa cao cả và một dân tộc can đảm. Nam Việt Nam chỉ muốn
có cơ hội để chiến đấu cho sự sống còn của mình như là một quốc gia độc lập. Tất
cả những gì mà nước Mỹ phải làm là cung cấp phương tiện để họ tiếp tục cuộc chiến.
Những người bạn Nam Việt Nam của chúng ta chỉ đòi chúng ta phương tiện để họ
hoàn thành việc ấy. Quốc hội (Mỹ) không cho nên họ không hoàn thành được. Nhưng
chúng ta phải nhìn nhận rằng còn có những điều tồi tệ hơn là chiến tranh. Lính
Cộng Sản đã mang đến hòa bình cho Nam Việt Nam và Cao Miên, nhưng đó là thứ hòa
bình của những nắm mồ”.
(chữ “hòa bình” dịch từ
chữ peace của Mỹ, nhưng chữ peace còn có nghĩa là “yên tịnh” nữa, như trong
“Rest in Peace” (RIP) (Yên giấc nghìn thu). Do đó, trong câu nói trên đây của Tổng
Thống Nixon, chữ “peace” đầu thì có nghĩa là “hòa bình”, nhưng chữ “peace” sau
thì dường như có nghĩa là “yên tịnh”).
Tổng Thống Nixon chỉ tìm cách đổ lỗi
cho Quốc hội Mỹ, nhưng trên thực tế chính ông ta và Kissinger đã phản bội và
bán đứng VNCH bằng Hiệp Định Paris 1973 rồi. Đặc biệt hơn nữa là Hiệp Định
Paris không đưọc Tổng Thống Nixon trình cho Quốc Hội Mỹ phê chuẩn, nên Quốc Hội
Mỹ phủi tay khi, năm1975, CSBV vi phạm Hiệp Định Paris 1973.
Cựu tướng lảnh Pháp Vanuxem nhận xét:
“Khi có những người chỉ huy xứng
đáng ở bên họ thì người lính VNCH không thua một người lính của bất cứ cường quốc
nào trên thế giới” .
(đó cũng là nhược điểm
sinh tử của QLVNCH vì trên thực tế, nếu QLVNCH có một số cấp chỉ huy ưu tú thì
QLVNCH cũng có một số không nhỏ cấp chỉ huy không xứng đáng. Xin xem “Giòi Việt
Nam” ở phần sau. “Người ngoại quốc cũng đồng ý là đa số binh sĩ VNCH rất
anh hùng dù bị bạc đải và lảnh đạo sai lầm, còn
bộ phận lảnh đạo thì đa số tồi tệ. Ít nhất cũng
còn một số tướng lảnh, sĩ quan cao cấp giữ được tư cách, tác phong của kẻ sĩ
yêu nước, có lý tưởng…Khi phục vụ đã tận tình vì nước. Khi mất nước đã tự sát để
nêu cao khí tiết. Những người còn sống bị tù đày nhưng không đầu hàng tư tưởng
tuy không khỏi có một số hèn nhát làm tay sai cho địch” (quên xuất xứ, xin cáo
lỗi cùng tác giả)
13. Giáo sư Mỹ Louis A. Fanning viết
trong cuốn sách “Betrayal in Vietnam” (“Sự Phản bội ở Việt Nam”) như sau:
“Thủ phạm vụ khai tử miền Nam Việt
Nam là quốc hội Mỹ. Không phải là Cộng Sản Hà Nội đã thắng cuộc chiến tranh mà
là quốc hội Mỹ đã làm cho Hà Nội thắng. Nhóm Dân Chủ đa số có sự trợ giúp của
vài kẻ hồ đồ của đảng Cộng Hòa đã biến nhân dân Nam Việt Nam thành nô lệ của Cộng
Sản”
(cuốn sách “Đại thắng
mùa xuân” của Văn Tiến Dũng chỉ là hoang tưởng và đã bị chết yểu do chính đảng
CSBV “giết” vì quá lố bịch. “Chó ngáp phải ruồi” hay “Ngồi chờ sung rụng” thì
làm sao có thể gọi là “Đại thắng” được? Địch có đánh đâu mà thắng?).
Thật sự thì thủ phạm khai tử miền
Nam Việt Nam là cặp bài trùng Nixon-Kissinger qua Hiệp Định Paris 1973. Năm
1975, khi cắt hết viện trợ cho VNCH, Quối Hội Mỹ chỉ giúp cho VNCH một phát
súng hay một nhát dao ân huệ (coup de grace) thôi.
14. T/S Roger Canfield trả lời đài VOA
ngày 23 tháng 3 năm 2010:
“Các chiến sĩ Cộng Hòa ở miền Nam
VN không đánh bại được lính CSBV vì Mỹ đã phản bội họ. Theo tôi, phản bội đồng
minh của mình là điều đáng xấu hổ”
(nhưng đồng minh Mỹ đâu
có đồng ý với T/S Roger Canfield?)
15. “Rốt cuộc, chúng ta chỉ
lo tháo chạy. Ý chí dân tộc của Hoa Kỳ đã sụp đỗ”
(Đại sứ Martin, đại sứ Mỹ cuối cùng ở Việt
Nam) (Tháo chạy là hèn nhát và phản bội!)
16. Ngày 13 tháng 04 năm 1975 (trước
ngày quốc hận 30 tháng 04), tại tỉnh Kalamazoo, Michigan, Luật Sư Alexander
M.S.Mc Coll (trường Harward) nhận xét như sau:
“Bây giờ thì rõ là khi phải ra tay
cứu một đồng minh lâm nguy, Mỹ là một con cọp giấy, vì tập thể nhân dân Mỹ thiếu
ý chí để lấy các quyết định sắt đá và để chấp nhận các thử thách khó khăn lịch
sử đã trao cho nước Mỹ”.
[Không hẳn như vậy. Thật
ra, Mỹ không phải là một con cọp giấy (xin xem mục B trên đây về Cầu Không Vận
(Operation Nickel Grass), vì khi
cần và nếu
muốn cứu một đồng minh đang lâm nguy (Do Thái), Mỹ có thể
có hành động rất ngoạn mục, phi thường, siêu việt…nhưng,
khi phải ra tay cứu đồng minh Nam
Việt Nam đang lâm nguy, Mỹ không phải là một con cọp giấy (oan cho Mỹ), mà là một
con cáo già tráo trở, xảo quyệt, bất nhân, bất nghĩa, bất tín, vô lương tâm,
hèn hạ, phản phúc… bắt tay với kẻ thù bán đứng đồng minh VNCH cho bầy quỷ đỏ
CSBV]
Hoàn toàn thiếu đạo đức!
Văn minh ở chỗ nào?
Nhân đây, tác giả xin chân
thành cảm tạ và tri ân nhân dân Hoa Kỳ đã mở rộng vòng tay cưu mang cả triệu
người Việt tị nạn CS (năm 1975 chỉ có 130,00 người tị nạn Việt Nam được nhận vào
nước Mỹ, chương trình ODP (orderly departure program: chương trình ra đi có trật
tự (viện HO) từ năm 1979 tới năm 1994 cho phép167,000 cựu tù cải tạo và 523,000
thân nhân định cư ở Mỹ, viện con lai và gia đình gồm 89,700 người, chương trình
ROVR (Resettlement opportunity for Vietnamese returnees: Cơ hội tái định cư cho
những người Việt bị gởi trả về) thêm 18,000 người và 1,855 người Việt tị nạn còn
kẹt ở Phi Luật Tân từ năm 1989, nâng tổng số người Việt tị nạn lên 929,555 (thống
kê năm 2000: 1,122,528), (thống kê năm 2010: 1,548,449).
Tác giả cũng không bao
giờ dám quên ơn sự hy sinh cao cả của hơn 58,000 quân nhân Mỹ trong chiến tranh Việt Nam, và
Tác gia xin lỗi
nhân dân Mỹ về những lời
trên đây,
nhưng
đó là sự thật mà chính phủ và quốc hội Mỹ đã đối xử với VNCH trong chiến tranh
Việt Nam.
Nếu nói lên sự thật là
có tội thì tác giả xin nhận tội!
17. Ngày 14 tháng 04 năm 1975 (trước
ngày quốc hận 30 tháng 04, 1975), ký giả Davis Helberstam viết trong báo
Newsweek như sau:
“ Tất cả những thất bại lịch sử, những
sự hèn nhát và bần tiện chính trị của nhiều nhà lảnh đạo Tây Phương được trút
lên cổ Quân Lực ấy (QLVNCH). Việc làm của Quân Lực ấy là chiến đấu dựa vào sự
gian dối của những người Tây Phương giàu mạnh”
(ám chỉ ai thì chúng ta đã biết rồi vì chúng
ta là nạn nhân mà!)
18. Ngày 05 tháng 02 năm 1975 (sau
ngày quốc hận 30 tháng 04, 1975), ký giả Peter Koln (giải thưởng Pulitzer) của
Wall Street Journal nhận xét:
“Nam Việt Nam đã cầm cự và chiến đấu tới 25
năm, không phải lúc nào cũng có người Mỹ bên cạnh để giúp họ. Tôi nghĩ rằng ít
có xã hội nào lại có được sự bền bĩ để chiến đấu như thế. Đã có 700,000 lính
Nam Việt Nam tử trận, hơn 1,000,000 người khác bị thương. Họ tiếp tục chiến đấu
để mang lại thêm thời giờ cho người Mỹ yên ổn rút đi. Quân đội ấy thật ra đã tốt
hơn điều mà người ta đã nói tới. Chúng ta đã ép Nam Việt Nam phải ký cái thỏa
hiệp sơ hở của năm 1973, chúng ta đã hứa sẽ giúp họ như đã giúp họ năm 1972 nếu
Bắc Việt tấn công lần nữa. Quả thật Cộng Sản đã tấn công lần nữa, nhưng chúng
biết rất rỏ là quốc hội Mỹ sẽ khoanh tay. Tổng Thống Mỹ biết quốc hội Mỹ không
rỏ bằng Cộng Sản”.
Nói như vậy là oan cho
Tổng Thống Mỹ! Thật ra, Tổng Thống Mỹ hiểu rất rỏ, nên mới “bắt tay” và “nhờ”
quốc hội Mỹ giúp cho VNCH “coup de grace” (phát súng hay nhát dao ân huệ) để kết
liểu VNCH trước khi giao cho CSBV (đã sắp xếp sẳn hết rồi). Tất cả chỉ vì quyền
lợi của Mỹ!
Theo chương trình của đạo diển Mỹ
thì Tổng Thống Ford phải xin
quốc hội Mỹ viện trợ khẩn cấp 300 triệu để cứu miền Nam, nhưng quốc hội Mỹ phải
từ chối để bức tử miền Nam trước khi giao
cho CSBV.
Như vậy thì không ai trách Tổng Thống Ford là bỏ
rơi VNCH, thấy đồng minh lâm nguy mà không cứu. Đó chỉ là một màn hài kịch rẻ
tiền!
Trên thực tế thì, vì quyền lợi của
Mỹ, Hành pháp và Lập pháp Mỹ đã bắt tay nhau để cùng bức tử VNCH.
Nói một cách khác, nước Mỹ đã bức tử VNCH vì
quyền lợi của nước Mỹ chứ không phải chỉ riêng Hành pháp hay Lập pháp Mỹ!
Dù quyền lợi đó như thế
nào thì, đối với thế giới và nhân loại, hành động của Mỹ cũng là thiếu đạo đức,
muối mặt, thất hứa, bội tín, đâm sau lưng đồng minh, bắt tay với kẻ thù để hại
đồng minh, phản bội đồng minh, siết cổ và bức tử đồng minh trước khi giao đồng
minh cho kẻ thù.
Có xã hội văn minh nào trên thế giới
có thể chấp nhận hay dung thứ cho hành động tồi bại và đốn mạt này của Mỹ đối với
VNCH?
19. Tướng Mỹ Lewis Walt nhận xét:
“Không phải ngồi du hý
tại Saigon mà QLVNCH có con số chết chóc cao như vậy!” (cao
hơn gấp mười mấy lần con số chết chóc của quân Mỹ, nhưng QLVNCH vẫn bị Mỹ chụp
mũ là hèn nhát, không chịu đánh giặc!) [xin xem đoạn (30) dưới đây]
20. Trong tác phẩm “Lodge in Vietnam”
[“Ông (đại sứ) Lodge ở Việt Nam”] trang 190, Anne Blair viết như sau:
“Âm mưu giết hại Tông Thống Diệm là
một vết nhơ, một “mối ám ảnh” theo đuổi dai dẳng lương tâm nước Mỹ, quần chúng
và nhà lảnh đạo xứ này, tạo ra “hội chứng Việt Nam”
21. Giáo sư Robert F. Turner thuyết
trình trong buổi hội luận kỷ niệm 35 năm “lưu vong” tổ chức ngày 28 tháng 04
năm 2010 tại Westminster đã nói như sau:
“Với những người giận dữ về sự phản
bội của nước tôi 35 năm về trước (30 tháng 04, 1975), xin cho tôi được nói rằng
sự giận dữ này cũng là sự giận dữ của bản thân tôi”…
“Chúng ta không thể sữa được điều ác đã xảy ra, nhưng chúng ta có thể nghiên cứu
nó và có thể hành động để người Mỹ chúng ta hiểu rỏ thảm kịch lớn lao của sự “bội
tín”.
22. Ông Douglas Pike, thuộc sứ quán
Hoa Kỳ, viết như sau về hậu quả của việc “bội ước” sự cam kết của mình (Hoa Kỳ)
là sẽ bảo vệ người dân của các nước Không Cộng Sản ở Đông Dương:
“Dù có ước lượng dè dặt
nhất, có nhiều thường dân Đông Dương (Việt, Miên, Lào) bị bạo sát sau chiến
tranh Việt Nam hơn là tổng số nạn nhân trong thời chiến, ít ra là hơn
2,000,000…Nỗi khổ đau lên tới mức chưa từng thấy, còn thê thảm hơn những ngày
chinh chiến”.
23. Giáo sư Lewis Sorley, tác giả cuốn
“A better war” (Một cuộc chiến khá hơn) cho biết:
“Có
khoảng 250,000 Quân, Cán, Chính… của miền Nam củ đã chết trong các traị cải tạo,
khoảng 1,500,000 dân miền Nam bị đẩy vào các “vùng kinh tế mới” và khoảng
48,000 đã chết tại đây”
[giáo sư còn quên khoảng 400,000 “boat people”
đã bỏ mạng trên biển vì tìm tự do, chạy trốn chế độ tàn ác của CSBV! (thà chết
còn hơn sống với CS) (theo Cao Ủy Tị Nạn của LHQ thì 1/3 số người vượt biển
(khoảng 400,000 người) đã chết ngoài biển. Có 840,000 người (tức 2/3 số người vượt
biển) tới Hồng Kông và các nước không CS ở Đông Nam Á)]
[Năm 1977, các quan chức
Hà Nội khăng khăng tuyên bố rằng chỉ có 50,000 người bị bắt giữ vì có những
hành vi gây nguy hại cho an ninh quốc gia. Nhưng đến ngày 22 tháng 09 năm 1978,
thủ tướng Phạm Văn Đồng của CSBV đã khoe với báo Paris Match: “Trong 03 năm
qua, tôi đã trả tự do cho hơn 1,000,000 tù nhân từ các trại tù cải tạo” (Nếu muốn
thả 1,000,000 tù nhân thì các trại tù cải tạo phải có hơn 1,000,000 người. Nếu
không thì các trại tù cải tạo phải đóng cửa vì đâu còn ai trong tù. Như chúng
ta đã biết, các trại tù cải tạo đâu có đóng cửa năm 1978 mà còn “tranh thủ” “hoạt động” rất mạnh mẻ và lâu dài sau đó cả mấy
chục năm nữa)].
24. William E. Colby, Trùm CIA ở Việt
Nam, trả lời phỏng vấn của Ted Gittinger ngày 02 tháng 06 năm 1981:
“Cuộc đảo chánh ngày 01 tháng 11
năm 1963 (tại Việt Nam) không thể xảy ra nếu nước Mỹ không khuyến khích. Tôi
nghĩ đó là lỗi lầm lớn mà chúng ta đã phạm phải”.
[không phải nước Mỹ chỉ khuyến
khích và thúc đẩy đâu, mà nước Mỹ chủ trương, chủ mưu, chủ xướng, chủ động, chủ
lực. Colby chắc chắn phải biết rỏ điều đó, vì CIA được chỉ thị của cơ quan lảnh
đạo Mỹ “ngụy
tạo” tài liệu liên lạc bí mật giữa ông Ngô Đình Nhu và
CSBV, CIA thổi phồng và đánh lạc hướng “tự thiêu và xuống đường” của Phật Giáo,
CIA bịa đặt và xuyên tạc “độc tài”, “gia đình trị” để tay sai bản xứ có lý do đảo
chánh, CIA cày người vào tất cả cơ quan đầu nảo của VNCH để theo dỏi và lủng đoạn,
CIA (Lucien Conein) có mặt thường trực tại bộ chỉ huy của phe đảo chánh để cố vấn,
chỉ đạo, theo dỏi và kiểm soát… và CIA (Lucien Conein) cũng là ngưới trả tiền
cho phe đảo chánh (3 triệu tiền VN hay 42,000 đô la Mỹ).
Đó
không phải là “lỗi lầm” mà là hành động “thiếu đạo đức” của một siêu cường đối
với một đồng minh bé nhỏ lâu đời (20 năm)]
25. Khi nghe tin Tổng Thống Ngô Đình
Diệm bị giết, Tổng Thống Johnson của Mỹ đã tỏ ra bực bội:
“Như vậy là chúng ta đã giết ông ta (Tổng
Thống Ngô Đình Diệm). Chúng ta đã hợp với nhau và dùng “một
bọn giết mướn đáng nguyền rủa” để ám sát ông ta. Lúc
đó tôi đã can, xin đừng làm việc đó nhưng họ không nghe tôi, cứ tiếp tục và họ
đã giết ông ta.”
26. Khi đề cập tới cái chết của Tổng
Thống Ngô Đình Diệm và bào đệ Ngô Đình Nhu, Lucien Conein, Trung Tá CIA ở Việt
Nam, người đại diện của Mỹ liên lạc với các tướng lảnh đảo chánh của VNCH và
cũng là người trao $3,000,000 VN (42,000 đô la) cho phe đảo chánh để thưởng
công, giải thích bằng tiếng Pháp (vì các tướng lảnh đảo chánh xuất thân từ quân
đội Pháp và nói tiếng Pháp giỏi hơn tiếng Mỹ):
“On ne fait pas d’omelette sans
casser les oeufs”
[xin tạm dịch: “Người
ta không thể làm món trứng rán (hay trứng chiên) được nếu không đập bể những quả
trứng” (“Việt Nam Nhân Chứng”, hồi ký của Tướng Trần Văn Đôn, trang 228]
(Lucien Conein ngụ ý: “Người ta không làm “Cách Mạng” hay “Đảo Chánh” được nếu
không “giết người”, ý của ông ta muốn ám chỉ: cái chết của Tổng Thống Ngô Đình
Diệm và bào đệ Ngô đình Nhu là đương nhiên phải có, phải xảy ra) cho nên ông ta
đã không muốn nhìn 2 cái xác và cũng không cần biết ai đã ra lệnh giết Tổng Thống
Ngô Đình Diệm và bào đệ Ngô Đình Nhu vì 2
cái chết này đã có sẳn trong kế hoạch “đảo chánh” rồi
(do Mỹ soạn
thảo và kiểm soát thi hành) [Nhớ lại lúc còn đi học, đọc thơ ngụ ngôn của La
Fontaine (một nhà văn Pháp): “La raison du plus fort est
toujours la meilleure” (tạm dịch: “Lý lẻ của
kẻ mạnh bao giờ cũng đúng”, bây giờ mới thấy quả thật đúng như vậy. Trong các
tướng lảnh đảo chánh, có ai mạnh hơn Lucien Conein, mặc dù ông ta chỉ mang lon
Trung Tá thôi, nhưng lại có quyền ra lệnh cho các tướng lảnh đảo chánh [chỉ là những
tay sai bản xứ? (hồ sơ của Hội Đồng An Ninh Quốc
gia Hoa kỳ tháng 9, 1963].
27. Trong cuốn “ President Kennedy,
Profile of Power” (“Trắc diện Quyền Lực của Tổng Thống Kennedy”) trang 651, sử
gia Mỹ Richard Reeves viết như sau (sau khi Tổng Thống Ngô Đình Diệm và bào đệ
Ngô Đình Nhu bị sát hại):
“Người Mỹ, vì các mục tiêu thực tiễn, đã
cai quản đất nước (Nam Việt Nam). Các tướng lảnh(đảo chánh) Việt Nam cười trước
các máy quay phim, nhưng lo lắng và chờ đợi tiền và chỉ thị từ Washington, thủ
đô mới của miền Nam Việt Nam”
(Thật là nhục nhả! Nhục Quốc thể! Sai! Thật là
danh dự và hảnh diện: Tướng lảnh (đảo chánh) Việt Nam được ghi danh vào lịch sử
của Mỹ, dù chỉ là “kẻ ăn người ở trong nhà” hay “tay sai bản xứ” hoặc “một bọn
giết mướn đáng nguyền rủa”!
“Ta
thà làm đầy tớ nước Mỹ chứ không làm tướng nước Nam ”.
Đó là ý nguyện thật sự
của Tưóng Lảnh đảo chánh!
Trần Bình Trọng có linh thiêng xin hảy về đây
chứng giám “một đám nghịch tử” hay “một bọn giết mướn đáng nguyền rủa” này chịu
làm “tay sai bản xứ” cho ngoại bang để giết anh hùng dân tộc TT/NĐD!
28. Trong cuốn “The Vietnam War
1945-1990” (“Chiến tranh Việt Nam 1945-1990) , Marilin B. Young cũng có nhận định
tương tự:
“Ông Diệm đã làm hỏng
chính sách của Hoa Kỳ về phương diện chiến thuật.
(không cho Mỹ xen vào nội
bộ Việt Nam, không cho đổ quân Mỹ vào Việt Nam mà không có một hiệp ước phòng
thủ song phương như Mỹ đã ký với Nam Hàn…để Mỹ áp dụng chiến thuật “Search
& Destroy” (Tìm và Diệt địch), (quân Mỹ đánh CSBV, QLVNCH giữ an ninh diện địa),
nhưng Tổng Thống Kennedy không muốn Mỹ có một hiệp ước phòng thủ song phương với
Việt Nam, cũng như Mỹ không muốn coi việc gửi lính chiến đấu Mỹ sang Việt Nam
như là sự thi hành một hiệp ước)
nên được
(hay bị?) Hoa
Kỳ thay thế (và hạ sát) bằng một nhóm tướng lảnh
(hay “một bọn giết mướn đáng nguyền rủa”? (theo Tổng Thống Johnson). Khác
với ông Diệm, họ (nhóm
tướng lảnh hay những tay sai bản xứ, hay một bọn giết mướn đáng nguyền rủa) lệ
thuộc vào Hoa Kỳ và vì thế sẳn sàng làm theo những lời cố vấn
(gọi
dạ bảo vâng).
Những nhân viên tình báo của CIA
như… (xin được dấu tên, nhưng
chắc ai cũng đã biết) được Hoa Kỳ đưa ra lảnh đạo miền Nam, đã
để mất chủ quyền quốc gia, đưa miền Nam đến ngày 30 tháng 04 năm 1975”.
[Đây là lời xác nhận của Mỹ (chứ không phải lời
lẻ xuyên tạc hay lên án vu vơ)! Bộ hết ai để đổ lỗi rồi sao, lại đi đỗ lỗi cho “một
bọn giết mướn đáng nguyền rủa”, vì ngoài nghề giết mướn ra, họ có biết “lảnh đạo”
là cái “mô, tê” chi đâu mà giao cho họ lảnh đạo miền Nam? Giao một nhiệm vụ vượt
quá xa sự hiểu biết và khả năng của người nhận là lỗi và cố ý của người giao chứ
không phải lỗi của người nhận. Họ đã đáng nguyền rủa từ lâu rồi, từ ngày 01
tháng 11 năm 1963 (theo Tổng Thống Johnson) chứ không cần phải đợi tới ngày 30
tháng 4 năm 1975. Hơn nữa,
ngày 30 tháng 04, 1975 chỉ là hậu quả có thể
tiên đoán được của ngày 01 tháng 11, 1963 vì sau ngày này (01/11/1963), Việt
Nam là một nước không có “lảnh đạo” nữa (theo sự đánh giá của chính quyền Mỹ năm
1963).
Ai không tin, cứ hỏi
Cabot Lodge (đại sứ Mỹ ở Việt Nam) “Sau khi trình Ủy Nhiệm Thư lên TT/NĐD, , ông
ta liền đến gặp khâm sứ Tòa Thánh Vatican tại Saigon, để nhờ vị khâm sứ này làm
trung gian nói với Tổng Giám Mục Ngô Đình Thục bốn đề nghị của chính quyền
Kennedy như sau: [trích Lời Phát Biểu trong lễ giỗ thứ 48 của TT/NĐD, Thanh
Hung (source: An Viet Toan Cau), Đặc San 2012 của Hội Ái Hữu Người Việt Quốc
Gia Hải Ngoại (HAH/NVQG/HN), trang 203-204]
1.
TT/NĐD nhường hải cảng Cam Ranh cho Hoa Kỳ 99 năm
2. TT/NĐD chấp thuận cho Hoa Kỳ đưa
200,000 quân bộ binh vào Nam Việt Nam
3. TT/NĐD đặt Bộ Quốc Phòng của VNCH dưới
quyền chỉ huy của quân đội Hoa Kỳ
4. TT/NĐD đưa ông cố vấn Ngô Đình Nhu đi nước
ngoài.
Hết ý! Cái này “Tây Tà
bình dân học vụ” gọi là “Jouer papa” (Chơi cha), chứ Đồng Minh gì mà đề nghị kỳ
vậy? Chi lạ rứa mi?
29. Sau khi lật đổ và hạ sát Tổng Thống
Ngô Đình Diệm và các bào đệ Ngô Đình Nhu, Ngô Đình Cẩn,
ngày
08 tháng 03 năm 1965, Mỹ tự ý đỗ quân, đợt đầu 3,500 TQLC lên Đà Nẳng một cách
độc đoán, trịch thượng, không có sự đồng ý của chính quyền Nam Việt Nam, không
có thỏa hiệp phòng thủ song phương, coi
thường chính quyền miền Nam, làm cho miền Nam mất chủ quyền và mất luôn
chính nghĩa
(điều mà Tổng Thống Ngô
Đình Diệm đã tiên đoán, lo sợ, cực lực phản đối và đã hy sinh tính mạng vì cương
quyết bảo vệ chủ quyền và chánh nghĩa quốc gia) (xin xem đoạn (3) và (4) trên
đây). Mỹ chưa chịu ngừng chân ở đó, mà tiếp tục đổ thêm quân tùy thích, như vào
chỗ không người, nâng tổng số lên 82,000 trong 6 tuần lễ đầu, 120,000 trong 4
tháng sau đó, 184,000 trong năm 1965, 300,000 vào giữa năm 1966, hơn 500,000
năm 1967 và 543,000 năm 1968 (gấp 2.5 đề nghị 2). Sau ngày 01/11/1963:
1.
Hải
cảng Cam Ranh khỏi cần nhường (đề nghị 1), vì Hoa Kỳ muốn xử dụng bao lâu cũng
được, tùy hỷ.
2.
Khỏi cần chấp thuận cho Hoa Kỳ đưa
200,000 quân Bộ Binh vào Nam Việt Nam vì Hoa Kỳ đã đưa 543,000 quân vào Nam Việt
Nam rồi.
3.
Khỏi cần đặt Bộ Quốc Phòng của VNCH dưới
quyền chỉ huy của quân đội Hoa Kỳ vì toàn thể VNCH đã được đặt dưới quyền chỉ
huy của Hoa Kỳ rồi.
4.
Khỏi cần đưa ông cố vấn Ngô Đình Nhu đi
nước ngoài vì Hoa Kỳ đã đưa ông qua bên kia thế giới cùng với TT/NĐD rồi.
Vì những lý do nêu trên, chính phủ Kennedy rút
lại toàn bộ bốn (04) đề nghị trên đây! Quí vị lảo đạnh, không phải lảnh đạo miền
Nam sau ngày 01 tháng 11, 1963 (Mỹ xác nhận là miền Nam không có lảnh đạo nữa)
tới ngày 30 tháng 04, 1975 còn gì để nói không về tội phản quốc này?
Đặc
biệt hơn nữa là quân Mỹ không bị lệ thuộc vào luật pháp của VNCH
(chủ quyền của VNCH ơi, mi đang ở đâu? Có lẻ mi đã trôi theo dòng máu đỏ của
TT/NĐD ngày 02/11/63?). Khi chủ quyền VNCH đã mất thì chánh nghĩa VNCH làm sao
có thể tồn tại được?
30. Như Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã
tiên đoán ở đoạn (4) trên đây: “Lính Mỹ đến. Lính Mỹ sẽ không dẹp được du kích
Cộng Sản. Lính Mỹ không ngăn chận được quân Bắc Việt vào Nam… Lính Mỹ sẽ ra
đi…”. Y như rằng, ngày
31 tháng 08 năm 1969, sau hơn 4 năm áp dụng chiến thuật
“Search and Destroy” [“Tìm Kiếm và Tiêu Diệt địch” do quân Mỹ đảm nhiệm, và
QLVNCH chỉ có nhiệm vụ giữ an ninh diện địa thôi, đó là chiến thuật do Mỹ tự ý
nghĩ ra chứ không phải do QLVNCH đề nghị,
đòi hỏi hay chọn lựa, nhưng về sau, khi chiến thuật “Search and Destroy” không
thành công, Mỹ bèn đỗ lỗi cho QLVNCH hèn nhát, không chịu đánh giặc (oan ôi ông
địa)], mà chưa dẹp đưọc Cộng Sản, Mỹ
bèn tự ý quyết định đơn phương rút quân ra khỏi Việt Nam 25,000 đợt đầu .
Tới tháng 07 năm 1971 trước khi có Hiệp Định Paris 1973), Mỹ đã rút 312,000
quân ra khỏi Việt Nam, và ngày 29 tháng 03 năm 1973, người lính Mỹ cuối cùng rời
khỏi Việt Nam.
Lính
Mỹ đến rồi lính Mỹ đi mà không cần có sự chấp thuận hay đồng ý của VNCH, như
vào ra chỗ không người.
Chủ quyền ở đâu? Chính nghĩa ở đâu để chống
xâm lăng khi CSBV hô hào “đánh Mỹ cứu nước” và cũng như Pháp, Mỹ đã rút lui thật.
CSBV tuyên truyền là “đánh cho Mỹ cút, Ngụy nhào”
và giải thích với dân chúng cả hai (02) miền Bắc và Nam Việt Nam là họ vào Nam
để “đánh Mỹ cứu nước”, “giải phóng miền Nam khỏi ách đô hộ của Mỹ” (vì Mỹ đã đổ
quân vào chiếm và quản trị miền Nam) chứ CSBV không phải “xâm lăng miền Nam”.
Cho dù dân chúng không muốn tin cũng phải tin vì CSBV có chính nghĩa (do Mỹ tặng
cho bằng cách tự ý đỗ quân vào miền Nam mà không có sự đồng ý của VNCH hay một
hiệp ước phòng thủ song phương ký với VNCH).
(Điều này đã không thể xảy ra dưới thời
TT/NĐD).
31. Sau khi đã được sự thỏa thuận của
Trung Cộng và Nga Sô (xin xem đoạn (32) và (33) dưới đây), chiến tranh Việt Nam
sẽ được kết thúc theo đường lối của Mỹ (theo đề nghị của Kissinger) như sau:
(a). Ký kết một hiệp định
ngưng bắn để Hoa Kỳ triệt thoái trong danh dự.
(b). Tôn trọng một khoảng thời
gian (Kissinger gọi là khoảng thời gian hợp lý (decent interval) giữa triệt
thoái và sự sụp đỗ sẽ xảy ra (một vài năm sau, để dư luận không lên án Hoa Kỳ
phản bội bạn, mà cho rằng chánh quyền Sàigòn bất lực).
(c). Mỹ có thể chấp nhận một
chánh phủ Cộng Sản ở Sàigòn.
32. Trong hồi ký của ông năm 1995, đại
sứ Nga Dobrynin tại Mỹ nhắc lại hai (02) lần lời
cam kết của Kissinger năm 1968
khi
ông Nixon tranh cử Tổng Thống:
“Nixon sẽ rút quân khỏi
Việt Nam và sau đó chế độ chính trị ở miền Nam Việt Nam ra sao, Mỹ cũng không
quan tâm, dù đó là một chế độ Cộng Sản”.
Kissinger do Nixon gửi
đến gặp Dobrynin tại tòa đại sứ Nga ở Washington, yêu cầu Nga đừng làm gì ảnh
hưởng tới việc tranh cử của Nixon trong năm đó [Như vậy là từ năm 1968, trước
khi có chương trình “Việt Nam hóa chiến tranh” (1969) của Mỹ đưa ra, Mỹ đã hứa
với quan thầy (Nga Sô) của CSBV là Mỹ sẽ đơn phương rút quân. Đó là lý do tại
sao trong hiệp định Paris 1973, Mỹ phải chịu đơn phương rút quân [vì đã hứa với
hai (02) quan thầy [Nga Sô (1968) và Trung Cộng (1971)] của CSBV rồi, còn quân
CSBV thì được quyền ở lại miền Nam (vì CSBV không có hứa với ai hết là họ sẽ
rút quân].
(Mỹ
có thể bội tín với đồng minh bé nhỏ VNCH, chứ làm sao có thể bội tín được với
Nga Sô và Trung Cộng?).
33. Theo ký giả Elaine Sciolino của báo
New York Times số xuất bản ngày 28 tháng 02. 2002, thì ngày 07 tháng 09, 1971,
Kissinger đã cho Trung Cộng biết:
“Dù có thương thuyết hay
không thương thuyết với Bắc Việt đi nữa, chúng tôi cũng sẽ rút quân, một cách đơn
phương”
34. Quốc hội Mỹ từ chối viện trợ quân
sự 300,000,000 đô la để cứu miền Nam Việt Nam (là đồng minh lâu đời của Mỹ).
Nhưng Quốc hội Mỹ chấp thuận cấp 455,000,000 đô la cho tị nạn! [nước
Mỹ không thiếu tiền, chỉ thiếu lương tâm!
Tiếc $300,000,000 để cứu mấy chục triệu dân miền Nam khỏi ách nô lệ của CSBV,
nhưng dám bỏ ra $455,000,000 chỉ để giúp vài trăm ngàn dân tị nạn! Như vậy phải
gọi là gì: “nhân đạo” hay “vô nhân đạo” khi lùa mấy chục triệu người miền Nam
vào chế độ CS độc tài, đảng trị, tham nhủng, khát máu, cướp của, giết người, vô
lương tâm, hủy diệt tất cả quyền công dân, dùng vũ lực đàn áp thẳng tay mọi tôn
giáo, tín ngưởng, vô cớ bắt bớ và giam cầm người dân vô tội đòi những quyền căn
bản của con người hay biểu tình chống ngoại xâm…và mặt khác thì bỏ ra một số tiền
lớn hơn để chỉ giúp đở vài trăm ngàn người tị nạn? Cán cân “nhân đạo” và “vô
nhân đạo” đã quá rỏ rệt]. Phân tách để thấy Quốc Hội Mỹ từ chối viện trợ khẩn cấp
300 triệu để cứu miền Nam Việt Nam chỉ là một trò hề rẻ tiền vì sự từ chối này đã
nằm sẳn trong kế hoạch “bức tử” VNCH của Hoa Kỳ.
35. Theo lời kể lại của một người sống
sót của HQ 10 thì ngày 19 tháng 01 năm 1974, sau trận hải chiến giữa hải quân
VNCH và hải quân Trung Cộng tại Hoàng Sa, thủy thủ đoàn còn lại của Hộ Tống Hạm
Nhật Tảo (HQ10) của Hải Quân VNCH được lịnh rời tàu, xuống các bè cứu cấp vì
tàu sắp chìm…Vì sóng gió to nên các bè cứu cấp [gồm bốn (04) bè lớn và một (01)
bè nhỏ chở 28 người (trong đó có một số người bị thương nặng, trung bình và nhẹ)]
bị trôi giạt xa bờ…
Ba
(03) lần, Hảỉ quân Việt Nam Cộng Hòa nhờ Đệ Thất Hạm Đội Mỹ cho tàu và trực
thăng giúp tìm kiếm và cứu vớt những người trên các bè cứu cấp đó, nhưng cả ba
(03) lần đều bị từ chối! (Tài liệu của HQVNCH)
Người sống sót của HQ
10 kể tiếp: “Chiều ngày 19 tháng 01, 1974 toán thủy thủ đoàn HQ10 đào thoát
trên bè cấp cứu mừng rở thấy một chiến hạm Mỹ ở gần đó, liền dùng “đèn pin”
đánh tín hiệu “SOS” (Save our Soul: Xin cứu vớt chúng tôi. Đó là tín hiệu cầu cứu
dùng chung cho cả Thế Giới) và bắn trái sáng để cầu cứu và gây chú ý, nhưng chiến
hạm đó đã bỏ đi, không cứu vớt” (không biết có phải vì xúc động bởi hành động
“vô nhân đạo” của chiến hạm đó hay không, mà đến tháng 11, 1974 LHQ ban hành
công pháp quốc tế về “Cứu người trên biển” [SOLAS : Safety of Life at Sea, Chapter V, Regulation
33(1) (An toàn về mạng sống trên biển, Chương V, hiệu chính 33(1)] và “Nghĩa Vụ
Giúp Đở” ngày 10 tháng 12, 1982 [Điều 98 của Công Ước LHQ về Luật biển lần thứ
III (UNCLOS III : United Nations
Convention on Law of the Sea) (đã có lần I năm 1956, và lần II năm 1960 rồi)
ghi rỏ như sau:
“a/ “ Giúp đở bất kỳ ai (kể cả kẻ
thù) đang gặp nguy khốn trên biển”;
b/
“Hết sức nhanh chóng đến cứu những người
đang bị nguy cấp nếu như được thông báo những người này cần được giúp đở trong
chừng mực mà người ta có thể trông đợi một cách hợp lý là thuyền trưởng phải xử
lý như thế”
(Đệ Thất Hạm Đội đã được
HQVNCH thông báo như vậy), (phải nhanh chóng cứu người lâm nạn trên biển, dù
người đó là ai (kể cả kẻ thù). (Hơn nữa, VNCH
lại là đồng minh lâu đời của Mỹ!)...[Thật ra đó chỉ là những “tu chính”
(amendments) chi tiết của những điều khoảng tổng quát đã có từ lâu của Công Ước
(quốc tế) tại Geneve năm 1864, 1914, 1949, 1958 và Công ước (quốc tế) tại La
Hague (Hòa Lan) năm 1899 và 1907]
Chương 9 về SAR (Search
and Rescue: Tìm Kiếm và Cứu Vớt) của Coast Guard Mỹ cũng có nhắc lại Mục 12(2)
của Công Ước (quốc tế) tại Geneve 1958 và Điều 98 của Công Ước LHQ về Luật biển
lần thứ III, chứng
tỏ là Đệ Thất Hạm Đội Mỹ biết rỏ về luật “cứu người trên biển” của LHQ,
nhưng cố tình vi phạm, dù đã ký tên vào những Công Ứớc Quốc Tế đó (cũng giống
như Mục 4 của Định Ước bảo đảm việc thi hành Hiệp Định Paris 1973 mà Mỹ đã ký
(cùng với 11 quốc gia khác) ngày 02 tháng 03, 1973. Đâu có gì lạ?].
Theo truyền thống lâu đời
từ nhiều thế kỷ trên thế giới, những người đi biển đã xem như họ có bổn phận
phải cứu giúp những người đi biển khác đang gặp nạn trên biển. Bổn phận ở đây là
bổn phận tinh thần, bổn phận nhân đạo, chứ không phải bổn phận pháp lý. Bổn phận
này, ngày nay đã được LHQ đưa vào luật
quốc tế về hàng hải (trở thành
bổn
phận pháp lý) và được 195 quốc gia trên thế giới
chấp nhận, trong đó có Hoa Kỳ.
Có lạ chăng là chúng ta thường nghe
nói Cộng Sản không bao giờ tôn trọng lời hứa hay những hiệp ước họ đã ký, còn Mỹ
thì sao? Họ có tôn trọng lời hứa với VNCH hay những hiệp ước mà họ đã ký không?
Đã
có tới sáu (06) vị Tổng Thống Hoa Kỳ (Truman, Eisenhower,
Kennedy, Johnson, Nixon, Ford) thay phiên nhau tiếp tục hứa Mỹ sẽ không bỏ Việt
Nam, ngày nào CS còn xâm lăng Việt Nam nhưng Mỹ đã bỏ
Việt Nam khi CS đang xâm lăng Việt Nam! Câu nói bất hủ của Tổng Thống Nguyễn
Văn Thiệu: “Đừng nghe những gì CS nói mà hảy nhìn kỷ những gì CS làm” có thể
đem ra “xài” ở đây không?
“Đừng nghe những gì Hoa
Kỳ nói mà hảy nhìn kỷ những gì Hoa Kỳ làm”?
“Vì những vết thương quá nặng, thiếu
thuốc men, mất máu quá nhiều, không được cứu cấp kịp thời, nên sáu (06) người
đã qua đời và đã được thủy tán (trong đó có Hạm Phó của HQ10) trong đêm 19
tháng 01, 1974 và những ngày đêm sau đó. Tới chiều tối ngày 22 tháng 01, 1974
(ngày thứ tư sau khi xuống bè cấp cứu, sau 78 giờ lênh đênh trên mặt biển, bị
thương tật, đói khát, vật lộn với tử thần và tuyệt vọng…) thủy thủ đoàn của Hộ
Tống Hạm Nhật Tảo đào thoát trên các bè cấp cứu của HQ10 được một tàu dầu Hòa
Lan cứu vớt, chỉ còn lại 22 người sống sót, nhưng một người nữa đã chết sau khi
lên tàu, vì quá kiệt sức, nâng con số tử vong lên bảy (07) người, và hạ con số
người sống sót xuống còn 21 người”.
[Phải chi được chiến hạm Mỹ
(thuộc Đệ Thất Hạm Đội) cứu vớt ngay chiều ngày 19 tháng 01, 1974, thì bảy (07)
người xấu số đó được chửa trị kịp thời và có nhiều hy vọng sống sót.
Hy vọng hảo huyền! Khi
mấy chục triệu người dân miền Nam còn bị hy sinh lùa vào ách nô lệ dã man của
CSBV thì 07 thủy thủ đoàn của HQ10 có nghĩa lý gì? Nhằm nhò gì ba cái lẻ tẻ đó!
Thật đau lòng cò con!]
Thật
đau lòng cho một nước nhược tiểu như Việt Nam lở dại làm đồng minh với một nước
khổng lồ như Hoa Kỳ và hoàn toàn tin tưởng vào đồng minh khổng lồ của mình để rồi
cuối cùng bị đồng minh khổng lồ của mình phản bội, bắt tay với kẻ thù, bóp cổ mình...
chết tức tưởi! Một bài học “vọng ngoại” quá đắc mà cả dân tộc Việt Nam phải trả
bằng máu và nước mắt.
36. “Operation Frequent
Wind” (“Chiến dịch Ngọn Gió Thường Xuyên) nguyên thủy gồm 26 chiến hạm
đủ loại (Wikipedia), sau đó được Ngủ Giác Đài ra lệnh tăng lên thành 35 chiến hạm
gồm 5 Hàng Không Mẫu Hạm (HKMH) và 4,000 TQLC [“Decent Interval” (Khoảng cách
Thích Hợp) của Frank Snepp, trang 374] ,
và cuối cùng thành 50 chiến hạm đủ loại [USS Hancock (CVA-19) Memoirs) (Hồi ký
của HKMH/ tấn công của Mỹ số 19 tên Hancock], gồm gần hết hạm đội 7 (có khoảng
50-60 chiến hạm đủ loại), cộng thêm rất nhiều thương thuyền được thuê …tạo
thành một trong những cuộc di tản nhân đạo lớn nhất dưới áp lực và trong thời
gian ngắn như vậy [“Ride the Thunder” (Cởi Sấm) của Richard Botkin, trang
522-523] được thi hành ngày 29 và 30 tháng 04, 1975 (chỉ kéo dài có 19 giờ) tại
một địa điểm ngoài khơi Vủng Tàu cách bờ 17 hải lý ( gần 31.5km hay 31 cây số rưởi)
thuộc hải phận quốc tế (Hải phận Việt Nam cách bờ 12 hải lý, theo công pháp quốc
tế) để di tản bằng phi cơ trực thăng số kiều bào Mỹ và nhân viên làm cho Mỹ gồm
đủ mọi quốc tịch còn sót lại (chưa di tản kịp bằng phi cơ cánh quạt hay phản lực).
Trong vòng 19 giờ, chiến dịch này đã dùng 81 phi cơ trực thăng di tản tổng cộng
được khoảng 7,000 người gồm 1,373 kiều dân Mỹ và 5,595 nhân viên đủ mọi quốc tịch
làm việc cho Mỹ ra HKMH ở ngoài khơi .
Chiến
dịch này không phải để giúp đở hay di tản dân tị nạn Cộng Sản của Miền Nam Việt
Nam mà chỉ để di tản kiều dân Mỹ và những người làm việc cho Mỹ (thuộc mọi quốc
tịch).
“Operation Frequent
Wind”, the largest helicopter evacuation on record, begins removing
the last Americans from Saigon” [This
day (April 29, 1975) in History] [“Chiến Dịch Ngọn Gió Thường Xuyên”, cuộc di tản
lớn nhất bằng trực thăng được ghi nhận, bắt đầu bốc những người Mỹ cuối cùng ra
khỏi Saigon] [theo “Ngày này (29 tháng 04, 1975) trong Lịch Sử]. Vậy mà vẫn còn
sót lại khoảng 400 người thuộc đệ tam quốc gia (không phải Mỹ, cũng không phải
Việt) chưa di tản kịp.
Với lực
lượng hùng hậu như vậy (gần nguyên cả Hạm Đội 7 của Mỹ) gồm 50 chiến hạm đủ loại
trong đó có 5 HKMH và rất nhiều thương thuyền được mướn), TF 76 (Task Force 76:
Lực Lượng Đặc Nhiệm 76 được thành lập để thi hành “chiến dịch Ngọn Gió Thường
Xuyên” (Operation Frequent Wind) được sự hổ trợ của TF 77 và Không Đoàn Tác Chiến
tại Thái Lan về Không Yểm (air cover) và TF 73 về Tiếp Vận (logistics), có
thừa khả năng giúp đở và di tản tất cả dân Tị Nạn Cộng Sản của miền Nam Việt
Nam lúc bấy giờ (Tháng 04, 1975), vì họ đã tập hợp
ngoài khơi Vủng Tàu từ ngày 18-24 tháng 04, 1975 và chờ tới ngày 29 tháng 04,
1975 mới thi hành nhiệm vụ. Nhưng họ đã không làm như vậy!
Theo kế hoạch, 4,000 TQLC Mỹ sẳn sàng can thiệp
và đánh nhau với QLVNCH nếu QLVNCH cản trở việc di tản kiều dân Mỹ (Chỉ huy phải
tiên liệu: “rất có thể QLVNCH cảm thấy chua chát vì bị Mỹ bỏ rơi (bội tín/phản
bội), nên nổi giận, muốn bắt giữ kiều dân Mỹ làm con tin để buộc Mỹ phải ở lại,
không được tháo chạy”). Đó chỉ là giả thuyết tiên liệu của giới lảnh đạo Mỹ
cùng với biện pháp đối phó (không có gì sai trái), nhưng may quá, giả thuyết đó
đã không xảy ra, tránh được cảnh gà nhà bôi mặt đá nhau,
mặc dù gà Mỹ đã bôi mặt, nhưng gà
VNCH không nở bôi mặt, nên không có đá nhau!
Nếu người Mỹ có thể bỏ cả Miền Nam Việt Nam và
lùa mấy
chục triệu dân lành của miền Nam vào chế độ bạo
tàn và khát máu của CSBV, thì bỏ rơi, không cứu vớt vài trăm ngàn
dân tị nạn Cộng Sản của Việt Nam, có nghĩa lý gì?!!!
37. Nhà sử học Dương Trung Quốc (của Trung Quốc)
cho rằng
Hoa Kỳ có hành vi “đồng lỏa” với Trung Quốc
khi Trung Quốc (Trung Cộng) cưởng chiếm quần đảo
Hoàng Sa (19 tháng 01, 1974) từ tay của chính quyền Sàigòn chỉ non một năm sau
khi Hiệp Định Paris được ký kết (27 tháng 01, 1073) (nhận xét của chính sử gia
Tàu chứ không phải của Việt Nam hay của một quốc gia nào khác trên thế giới.
Không còn gì để bàn cải vì đây là bạch văn, ai đọc cũng hiểu, không thể hiểu lầm!
Chỉ xin ghi chú: Định Ước Quốc Tế bảo đảm việc thi hành nghiêm chỉnh Hiệp Định
Paris 1973 được 12 thành viên chấp thuận và ký tên ngày 02 tháng 03, 1973
(trong đó có Hoa Kỳ và Trung Quốc), Mục 4 có đoạn ghi như sau:
“Các
thành viên của Định Ước Quốc Tế này long trọng nhìn nhận và nghiêm túc tôn trọng
những quyền căn bản của quốc gia và dân chúng Việt Nam như độc lập, chủ quyền,
thống nhất và vẹn toàn lảnh thổ của Việt Nam cũng như quyền tự quyết của dân
chúng Việt Nam….”
Nhưng chưa đầy một năm sau, ngày 19 tháng 01,
1974, Trung Cộng (TC) dùng vũ lực xâm chiếm đảo Hoàng Sa của VNCH, và sau đó,
ngày 14 tháng 03, 1988 TC cũng dùng vũ lực xâm chiếm đảo Trường Sa của Việt
Nam, trắng trợn vi phạm Mục 4 trên đây (chủ quyền và vẹn toàn lảnh thổ của Việt
Nam) mà họ đã ký. Mỹ cũng quên chữ ký của mình, không chịu bảo đảm việc thi
hành nghiêm chỉnh Hiệp Định Paris 1973, nên đứng ngoài làm kẻ bàng quang, Đệ Thất
Hạm Đội Mỹ ở gần đó, không can thiệp và cũng từ chối tìm kiếm và cứu vớt thủy
thủ đoàn của HQ10 đang lâm nạn trên các bè cấp cứu, mặc dù có sự yêu cầu (03 lần)
của HQVNCH (là đồng minh lâu đời của Mỹ) (xin xem đoạn (35) trên đây].
Ngày 25 tháng 01, 1974
[sáu (06) ngày sau trận hải chiến Hoàng Sa (19/01/1974), trong một buổi họp do
ngoại trưởng Kissinger chủ tọa, Kissinger hỏi:
“Chúng ta chưa bao giờ ủng hộ tuyên
bố chủ quyền của họ (VNCH)?”
và được Đô Đốc Moorer, chủ tịch Hội Đồng Tham
Mưu Liên Quân, trả lời:
“Đó là lảnh thổ đang tranh chấp”
[Ở đây có hai (02) điều
“không ổn”. Thứ nhất: “câu hỏi” và “câu trả lời” phải đổi chủ (Moorer hỏi và
Kissinger trả lời) vì tuyên bố ủng hộ hay không ủng hộ chủ quyền là do Bộ Ngoại
Giao chứ không phải do Hội Đồng Tham Mưu Liên Quân). Thứ hai: Nếu đảo Hoàng Sa
là lảnh thổ đang tranh chấp, và chúng ta (Mỹ) chưa bao giờ ủng hộ tuyên bố chủ
quyền của họ (VNCH) thì đảo Côn Sơn và Phú Quốc thuộc về ai vì Mỹ cũng chưa bao
giờ ủng hộ tuyên bố chủ quyền của VNCH trên hai (02) đảo này?
Trên
thực tế, chưa bao giờ “chúng ta” (Mỹ) ủng hộ tuyên bố chủ quyền của VNCH trên lảnh
thổ miền Nam vì đó là lảnh thổ đang tranh chấp giữa VNCH và MTGPMN?
Chúng ta (Mỹ), từ 1965
tới 1968, đã đỗ 543,000 quân lên lảnh thổ đang tranh chấp này (không biết để
làm gì?) và tới năm 1969, chúng ta (Mỹ) giựt mình vì đã đổ quân lầm vào một lảnh
thổ đang tranh chấp, nên phải (bằng mọi cách) rút hết quân ra khỏi lảnh thổ
đang tranh chấp?] (lý lẻ của kẻ mạnh!).
Cũng trong buổi họp ngày 25 tháng 01, 1974,
Kissinger hỏi:
“Phản ứng của Bắc Việt
ra sao?”
được William Colby, Giám Đốc CIA trả lời:
“Họ bỏ qua, nói rằng
“nó” (Hoàng Sa) nằm dưới vĩ tuyến 17, và vì thế, không có ảnh hưởng tới họ”
[Câu nói này có nghĩa là
“nó” (Hoàng Sa) thuộc miền Nam (VNCH) chứ không phải thuộc miền Bắc (VNDCCH hay
CSBV). Vì vậy, câu nói này đã triệt tiêu hay nhìn nhận “công hàm của Phạm Văn Đồng
(CSBV) ngày 14 tháng 9, 1958 công nhận chủ quyền Hoàng Sa và Trường Sa của
Trung Cộng (TC) “ là vô giá trị vì vào thời điểm này, năm 1958, Hoàng Sa và Trường
Sa (nằm dưới vĩ tuyến 17) thuộc VNCH, chứ không phải thuộc CSBV. Trên phương diện
pháp lý, Phạm Văn Đồng (CSBV) không có quyền chuyển nhượng những gì mà ông ta
không có. Còn TC muốn “mua
trâu vẻ bóng” là quyền của họ! Một câu hỏi rất dễ hiểu
và dễ trả lời:
“Nếu Phạm Văn Đồng gửi công hàm tặng
cho TC đảo Guam (của Mỹ) thì TC có dám nhận không?”]
(lý lẻ của kẻ mạnh!)
38. Cái khó hiểu là năm 2012, tại nhà thờ kiếng
ở Orange County có tổ chức hết sức long trọng một buồi lễ “Cám ơn Hạm Đội 7 của Mỹ
và vinh danh mỗi Hạm Trưởng của Hạm Đội 7 của Mỹ” mà
Ban
Tổ Chức (BTC) nói là để cộng đồng tị nạn CS của Việt Nam tỏ lòng tri ân Đệ Thất
Hạm Đội và các Hạm Trưởng của Đệ Thất Hạm Đội.
Ban
Tổ chức cũng rầm rộ quảng cáo trên truyền thông, báo chí về “Chiến Dịch Ngọn
Gió Thường Xuyên” (Operation
Frequent Wind) đã cứu vớt mấy chục ngàn
người tị nạn CS của Việt Nam. Thật là oan ơi ông Địa!
[xin xem đoạn (36) trên đây] (BTC nói oan cho Operation Frequent Wind, làm cho Đệ
Thầt Hạm Đội cảm thấy khó chịu, ngượng nghịu và nhột nhạt vì thật ra họ cũng không
biết họ “bị” cám ơn và “bị” vinh danh vì lý do gì, vì thật ra họ đâu có cứu mấy
chục ngàn dân tị nạn CS của Việt Nam! Họ còn nhớ rỏ ràng là họ đã bỏ rơi HQVNCH
và ba (03) lần từ chối tìm kiếm và cứu giúp thủy thủ đoàn của HQ10 đào thoát trên
những bè cấp cứu bị trôi giạt trên biễn), còn Operation Frequent Wind là để cứu
vớt những kiều dân Mỹ và những người làm việc cho Mỹ, gồm mọi quốc tịch, còn sót
lại (chưa di tản kịp trước đây) chứ đâu phải để cứu vớt dân tị nạn Việt Nam?
Một số người tị nạn Việt
Nam được chiến hạm USS KIRK DE/Fregate 1087 hay bất cứ chiến hạm hoặc thương
thuyền của mọi quốc tịch cứu vớt, như CAP ANAMUR của Đức, ILE DE LUMIERE của Pháp
muốn tỏ lòng tri ân và vinh danh Hạm Trưởng, Thuyền Trưởng và thủy thủ đoàn của
chiến hạm hay thương thuyền đó thì rất đúng và nên làm, đúng theo câu “Ăn trái
nhớ kẻ trồng cây”.
Nhưng muốn toàn thể dân tị nạn cám ơn và vinh
danh Hải Quân Mỹ, Đệ Thất Hạm Đội Mỹ và mỗi Hạm Trưởng của Đệ Thất Hạm Đội Mỹ
thì quả là quá lố bịch và trơ trẻn, đúng danh “bưng bô và đội sớ” cho ngoại
bang, đồng thời mang tiếng vô ơn với HQVNCH và những Hạm Trưởng của HQVNCH (bụt
nhà không thiêng?) đã có công cứu vớt mấy chục ngàn (khoảng 32,000) dân tị nạn
Việt Nam chở qua Phi Luật Tân.
(không phải HQ Hoa Kỳ, cũng không phải Đệ Thất
Hạm Đội Mỹ và những Hạm Trưởng của Đệ Thất Hạm Đội Mỹ cứu vớt và chở đi).
(Cũng vì lẻ đó, những cấp
lảnh đạo và sĩ quan cao cấp của Hải Quân Mỹ và của Đệ Thất Hạm Đội Mỹ, những người
thật sự có ăn học, còn biết chút ít tự trọng và biết giữ thể diện tối thiểu, dù
được BTC mời, nhưng đã tìm cách từ chối khéo vì ngượng quá không thể tham dự được,
vì họ biết quá rỏ, năm 1974 và 1975, họ đã đối xử hết sức tệ bạc, cạn tàu ráo máng
với HQVNCH và dân tị nạn CS của miền Nam, ngoại trừ chiến hạm USS KIRK nói trên
(chiếm đa số quan khách VIP, từ HT đến thủy thủ đoàn, rất xứng đáng) và vài chiến
hạm hay thương thuyền khác.
BTC nhắc nhở đồng bào tị
nạn tại thủ đô tị nạn Việt hải ngoại nên “Ăn trái nhớ kẻ trồng
cây”, nhưng chính BTC không làm đúng như vậy!
Kẻ trồng cây ở đây là Hạm
Đội HQVNCH và những Hạm Trương thuộc Hạm Đội HQVNCH,
chứ không phải HQ Mỹ
hay Đệ Thất Hạm Đội Mỹ và những Hạm Trưởng của Đệ Thất Hạm Đội Mỹ! Họ bị BTC biến
thành kẻ “ăn cắp trái cây” (chứ không phải
kẻ trồng cây) (họ biết như vậy nên không dám tham dự vì ngượng).
“Kẻ trồng cây” đã không
được BTC nhớ tới, nhưng “kẻ ăn cắp trái cây” thì được BTC nhớ tới!
Đề nghị BTC sửa lại:
“Ăn trái quên
kẻ trồng cây” và “Ăn trái nhớ kẻ ăn
cắp trái cây”
cho đúng với tinh thần
buổi lễ.
Đó mới chỉ là “tác phong” của Ban Tổ Chức.
Đau lòng hơn nữa là trong buổi lễ “nhớ ơn và
vinh danh” đó, có sự tham dự và hiện diện của tất
cả (hay hầu hết) “tai to mặt lớn”
đại diện cho cộng đồng tị nạn tại thủ đô tị nạn CS của người Việt hải ngoại,
và những người luôn vỗ ngực tự xưng là độc quyền chống Cộng chường mặt ra chụp
hình, quay phim để lấy điểm và kể công với mẫu quốc và CSBV (vì họ chống Cộng ăn tiền:
họ lảnh tiền của CSBV để giả chống Cộng rồi chờ thời cơ để lật lọng). Không lẻ
không có ai trong số “tai to mặt lớn” đó biết rỏ sự thật? Vậy họ biết cái gì? Hay “biết” nhưng “ ngậm miệng
ăn tiền”, “chịu đấm ăn xôi” để tranh nhau “lập công với Mẫu Quốc”?
Tác giả và tổ chức của tác giả được Ban Tổ Chức
(BTC) mời làm toán dàn chào danh dự để đón Thượng
Khách
[VIP
(very important person): Tư Lệnh Hải Quân Mỹ, Tư Lệnh Đệ Thất Hạm
Đội Mỹ và các Hạm Trưởng của Đệ Thất Hạm Đội Mỹ]
(hoàn toàn không có HQVNCH và QLVNCH), có hỏi BTC:
“
Tại sao Cộng Đồng Tị Nạn
Việt Nam phải cám ơn Hải Quân Mỹ, Đệ Thất Hạm Đội Mỹ và vinh danh mỗi Hạm Trưởng
của Đệ Thất Hạm Đội Mỹ?”
được BTC trả lời như sau: “Vì Đệ Thất Hạm Đội
đã có công cứu vớt mấy chục ngàn dân Việt tị nạn CS đưa qua Phi Luật Tân, trong
chiến dịch “Ngọn Gió Thường Xuyên” (Operation “Frequent Wind”). Tác giả cho BTC
biết:
“ Mấy chục ngàn (khoảng 32,000) dân
Việt tị nạn CS đó không phải do Đệ Thất Hạm Đội Mỹ cứu vớt mà do Hạm Đội Hải
Quân Việt Nam Cộng Hoà (HQVNCH) cứu vớt và chở đi Phi Luật Tân. Còn chiến dịch
“Ngọn Gió Thường Xuyên” (Operation “Frequent Wind”) không phải để cứu vớt người
Việt tị nạn CS, mà để cứu vớt kiều bào Mỹ (1,373) và những người làm việc cho Mỹ
thuộc mọi quốc tịch (5,595)”.
Đây là sự thật: Người Mỹ
muốn lấy lại tất cả chiến hạm còn khiển dụng (không để lọt vào tay CSBV. Đúng!)
nhưng không có cách nào khác hơn là phải nhờ các Hạm Trưởng và thủy thủ đoàn của
HQVNCH đưa các chiến hạm đó tới Phi Luật Tân [Mỹ có căn cứ Hải Quân ở Subic Bay
(Phi Luật Tân)]. Nhân dịp đó, Hạm Đội HQVNCH đã mang theo được mấy chục ngàn
người tị nạn Việt Nam. Điều này có thể hỏi thẳng ông Richard Armitage (khách
danh dự của buổi lễ) là nhân viên đặc biệt của Bộ Quốc Phòng Mỹ, là người liên
lạc để nhờ HQVNCH đưa những chiến hạm còn khiển dụng qua Phi Luật Tân, không
có nhờ chở theo đồng bào tị nạn CS. Đó là hành động
hoàn toàn do sáng kiến và quyết định riêng của HQVNCH!
Tại
sao không cám ơn Hạm Đội HQVNCH mà lại đi cám ơn Đệ Thất Hạm Đội Mỹ?
[xin xem đoạn (36) trên
đây] Tại sao không vinh danh mỗi Hạm Trưởng của Hạm Đội HQVNCH mà lại đi vinh
danh mỗi Hạm Trưởng của Đệ Thất Hạm Đội Mỹ? [xin xem đoạn (35) trên đây]
Và
người đáng vinh danh nhất không phải là vị Tư Lệnh Hải Quân Mỹ hay vị Tư Lệnh Đệ
Thất Hạm Đội Mỹ, mà phải là vị Tư Lệnh HQVNCH lúc đó là Phó Đô Đốc CHUNG TẤN CANG,
người chỉ huy tổng quát
Hạm Đội HQVNCH.
(Phó
Đô Đốc Chung
Tấn Cang đã qua đời, không cho
phủ cờ quan tài thì đâu màng gì được vinh danh hay cám ơn?!),
nhưng không phải vì vậy
mà chúng ta (khoảng 32,000 dân Việt tị nạn được HQVNCH cứu vớt và chở qua Phi
Luật Tân. Tác giả cũng là một trong số khoảng 32,000 dân Việt tị nạn đó) quên
ơn kẻ có công và cám ơn và vinh danh kẻ đã bỏ rơi mình.
Đây là vấn đề lương tâm
của khoảng 32,000 dân tị nạn đã đi trên những chiến hạm của HQVNCH!
Ngoài ra,
mục đích của“Operation Frequent
Wind” (chiến dịch “Ngọn Gió Thường Xuyên”) của Mỹ là để di tản kiều bào Mỹ và
những người làm việc cho Mỹ (gồm mọi quốc tịch) chứ không phải để giúp đở và di
tản dân tị nạn CS của miền Nam Việt Nam.
[xin xem đoạn (36) trên
đây].
Hơn
nữa, sau trận hải chiến Hoàng Sa (19/01/1974), Đệ Thất Hạm Đội đã ba (03) lần từ
chối yêu cầu (hoàn toàn có tính cách nhân đạo) giúp đở của HQVNCH tìm kiếm và cứu
vớt thủy thủ đoàn HQ10 đào thoát trên những bè cấp cứu đang trôi giạt trên biển.
Họ, BTC, tỏ vẻ không
tin và còn ngụy biện, giải thích là sở dĩ Hạm Đội 7 Mỹ không chịu giúp HQVNCH
là để tránh “Thế Chiến thứ
III”. BTC là đạo diển đại tài, đã biến “kẻ tiểu
nhân” thành “người quân tử” và kêu gọi cộng đồng tị nạn Việt Nam phải tri ân
“người quân tử” đúng theo câu “ăn trái nhớ kẻ trồng cây”, mặc dù Đệ Thất Hạm Đội
không phải là kẻ trồng cây.
Nếu gây ra “Thế Chiến
thứ III” vì “cứu người lâm nạn trên biển” thì cũng nên làm lắm vì đó là một
hành động mà cả thế giới sẽ ngưởng mộ và bái phục! [xin xem đoạn (35) trên đây].
Họ còn biết rất rỏ là vì để tránh “Thế Chiến
thứ III”, chính Đệ Thất Hạm Đội Mỹ đã không chịu cứu vớt thủy thủ đoàn của HQ10
đào thoát trên các bè cấp cứu trên biển,
và đã
ra lệnh (?) cho tàu dầu Hòa Lan (nguyên văn của BTC) đến
cứu vớt các bè đào thoát của HQ10!
Thật hết thuốc chửa! Hiểu
biết công pháp quốc tế đến như vậy là đã đạt tới “đỉnh cao trí tuệ” rồi! Chính
trị giỏi tới như thế là cùng! “Quan Thầy” luôn luôn đúng, làm gì cũng đúng, nói
gì cũng đúng, “tháo chạy” cũng đúng,“phản bội” và “bức tử đồng minh” cũng đúng,
“từ chối cứu người lâm nạn trên biển” để tránh “thế chiến thứ III” cũng đúng,
“ra lệnh” cho tàu dầu Hòa Lan đến cứu cũng đúng.“Đầu óc và tinh thần vọng ngoại”
của họ đã đạt tới chỗ thượng thừa! Họ đã quên bài học “vọng ngoại” quá đắc mà dân
tộc Việt Nam phải trả bằng máu và nước mắt trong chiến tranh Việt Nam!
Nếu Ban Tổ Chức “làm” với
tính cách cá nhân hay đoàn thể hoặc tổ chức riêng của họ
thì chẳng có ai “quởn” để nói hay “dám” nói gì vì họ có quyền tự do cá nhân của
họ: họ muốn tôn thờ, lạy lục, cám ơn hay vinh danh ai là quyền của họ.
Tại sao họ lại lôi luôn cộng đồng tị
nạn CS của người Việt vào bưng bô và đội sớ cho ngoại bang???
“Cái
đau ở đây” là cộng đồng hay đúng hơn là những người
và tổ chức được bầu hay tuyên bố là được bầu hoặc thường
vỗ ngực tự xưng là đại diện cộng đồng hay tranh đấu
cho cộng đồng và độc quyền chống Cộng trong cộng đồng tị nạn CS của người Việt
rất “hồ hởi”,
rất
hăm hở, sốt sắn và hảnh diện tham dự bưng bô và đội sớ cho ngoại bang!
Thật
không biết cái nhục nào hơn cái nhục nào?
Người tổ chức hay kẻ
tham dự? Ai nhục hơn ai ?
Những người và những tổ
chức như vậy thì, ngoài việc làm nhục cộng đồng, họ còn làm được việc gì lợi ích
cho cộng đồng tị nạn CS của người Việt?
Không lẻ họ chống
Cộng kiểu mới bằng cách làm
cho CSBV ói mửa đến chết (khỏi cần xử dụng vũ
khí “hóa học” như ở Syria) vì quá ghê tởm hành động đốn mạt bưng bô và đội sớ
cho ngoại bang của họ?!!! Miển sao làm cho CSBV chết là được rồi?!!! Giỏi thật!
Sở dỉ chúng ta phải
“tha phương cầu thực” ngày hôm nay cũng vì chúng ta đã từng có những cấp “lảo đạnh”
[không phải “cấp lảnh đạo”, vì miền Nam không có lảnh đạo nữa sau ngày
01/11/1963 (do Mỹ xác nhận)] chịu bưng bô và đội sớ cho ngoại bang.
(điều này đã không thể xảy ra với
TT/NĐD).
Chắc chắn là chúng ta không muốn thấy việc này
tái diển!...Nhưng
nó đã và đang tái diển!.. ngay
trong thủ đô của người Việt hải ngoại!
Tuy chưa nguy hại tới quốc gia, nhưng đã nguy
hại tới cộng đồng! Chúng ta cần phải diệt hết “giống này” (giòi trong ruột)
ngay từ bây giờ để trừ hậu hoạn!
Tác giả và tổ chức của tác giả đã từ chối
không làm toán dàn chào danh dự và cũng không tham dự vì những lý do nêu trên.
Lẻ dỉ nhiên là:
“Có mợ thì chợ cũng
đông. Không mợ thì chợ cũng không bữa nào”,
cho nên đã có người khác và tổ chức khác nhận
lời mời của Ban Tổ Chức và rất hảnh diện làm toán giàn chào danh dự để đón Thượng
Khách (HQ Mỹ và Đệ Thất Hạm Đội Mỹ)! Xin mợ đừng buồn, vì thứ này ở đâu cũng
có, lúc nào cũng có, và có thật nhiều nữa! Họ chỉ thích được quay phim và chụp
hình đưa lên truyền hình và báo chí thôi, còn những thứ khác không quan trọng,
kể cả danh dự của họ, của tổ chức họ, và của cộng đồng!
Có lẻ vì thấy
“hơi kỳ kỳ” hay “hơi nghịch lý” (nếu không muốn nói là “quá lố bịch” và quá trơ
trẻn) bởi những “lời thật mích lòng” trên đây và vì có quá nhiều cấp lảnh đạo và
sĩ quan cao cấp của Hải Quân Mỹ và của Đệ Thất Hạm Đội từ chối không tham dự (vì
ngượng), sau đó Ban Tổ Chức thêm vào chương trình: “ HQVNCH & QLVNCH” (giống
như Band Aid! Vá víu), nhưng
VIP vẫn là những Hạm Trưởng của Đệ Thất Hạm Đội Mỹ!
Hàng ghế danh dự
trên khán đài gồm toàn VIP Mỹ, hoàn toàn không có một VIP nào của Việt Nam, của
Hải Quân VNCH hay của QLVNCH. Đó là một bằng chứng nữa: HQVNCH và QLVNCH chỉ được
thêm vào giờ chót cho xôm tụ vì giới lảnh đạo và SQ cao cấp của HQ Mỹ và của Đệ
Thất Hạm Đội Mỹ không đến dự vì ngượng. Người được mời thấy ngượng, nhưng người
mời không thấy ngượng. Thật
“không biết cái nhục nào hơn cái nhục nào?” (người mời hay người được mời?)
[VIP Mỹ: Hải Quân Mỹ và Đệ Thất Hạm Đội Mỹ) đã
được mời rồi nhưng, vì ngượng, nên chỉ có “vài ngoe” tham dự] những người đã từng
“đồng lỏa” với TC [xin xem đoạn (37) trên đây] bỏ rơi (thiếu đạo đức, bội tín
và phản bội!) đồng minh lâu đời của Mỹ là HQVNCH, và ba (03) lần từ chối giúp đở
HQVNCH tìm kiếm và cứu vớt thủy thủ đoàn lâm nạn của HQ10 (xin xem đoạn (35)
trên đây (dã man, vô lương tâm và vô nhân đạo, vi phạm bổn phận tinh thần và nhân
đạo đã có từ nhiều thế kỷ trên Thế Giới về cứu người trên biển!) và không cứu dân
tị nạn Việt Nam trong chiến dịch Ngọn Gió Thường Xuyên (Operation “Frequent
Wind”, tháng 04, 1975).
Tại sao cộng đồng tị nạn của người Việt phải cám ơn
và vinh danh họ???...những người bạn đồng minh đã từng phản bội, đồng lỏa với kẻ
thù, bỏ rơi và từ chối cứu vớt mình???
Tại sao BTC muốn
bóp méo sự thật (vì “ngu dốt” hay vì “muốn lập công”?), đem râu ông nọ cắm càm
bà kia? Đem công lao của HQVNCH giao cho HQ Mỹ? Đem công lao của các Hạm Trưởng
của Hạm Đội HQVNCH giao cho các Hạm Trưởng của Đệ Thất Hạm Đội HQMỹ?
Nếu không phải
là bưng bô và đội sớ cho ngoại bang thì
gọi là gì cho đúng với hành động vô ơn, phản phúc, tồi bại, bỉ ổi, lố bịch và
trơ trẻn này??? Bụt nhà không thiêng???
(Chương trình nguyên thủy chỉ có “Cám ơn Hải
Quân Mỹ và Đệ Thất Hạm Đội Mỹ và vinh danh mỗi Hạm Trưởng của Đệ Thất Hạm Đội Mỹ”,
hoàn toàn không có “HQVNCH & QLVNCH”). Vì là Band aid vào giờ chót nên khi
BTC giới thiệu Tướng lảnh của HQVNCH
(nguyên văn của BTC), chỉ thấy một số HSQ và vài SQ cấp Úy (trong toán dàn
chào) lên khán đài để nhận vòng hoa…an ủi. Còn QLVNCH cũng không khá hơn, chỉ
thấy vài SQ cấp Úy (không biết thật hay giả?) của Lục Quân, Quân Cảnh và Không
Quân lên nhận vòng hoa…bố thí (do VIP Mỹ không dám nhận, còn sót lại). Những người
nhận vòng hoa này cũng dám muối mặt và đủ can đảm nhận mình là đại diện cho
HQVNCH và QLVNCH vì họ “rất can đảm trong những trường hợp không nguy hiểm”. Họ
có hơn gì BTC? Họ đã làm được gì cho khoảng 32,000 dân tị nạn Việt Nam mà dám
nhận vòng hoa, hay chỉ theo đóm ăn tàn, theo voi ăn bả mía? Không biết nhục khi
nhận “credit” không phải của mình?
Đây là bằng chứng hùng hồn nhất chứng tỏ là
BTC mới thêm vào chương trình buổi lễ: “HQVNCH và QLVNCH” vào giờ thứ 25, nhưng
vẫn không vinh danh Hạm Đội HQVNCH và mỗi Hạm Trưởng của HQVNCH đã đưa mấy chục
ngàn (khoảng 32,000) dân tị nạn Việt Nam qua Phi Luật Tân! BTC đã cố tình giao
công ơn này cho Đệ Thất Hạm Đội và mỗi Hạm Trưởng của Đệ Thất Hạm Đội (nhưng phần
đông không dám nhận vì ngượng). Chỉ có một số “ăn mày” đại diện cho “Cái Bang”
lên nhận vòng hoa “nhục nhả” của BTC vọng ngoại!
Hết ý! Tinh thần vọng ngoại, bưng bô và đội sớ
của BTC và những kẻ dám tự nhận mình là đai diện cho HQVNCH và QLVNCH vạn tuế!
Vạn vạn tuế! Có lẻ họ là người…Congo?
Chỉ cần nhìn mặt những
người hiện diện trong buổi lễ “bưng
bô và đội sớ” này để biết ai là người không xứng đáng
đại diện cho cộng đồng tị nạn CS của người Việt, vì họ là những tên
Việt
Gian vọng ngoại và sẳn sàng phản bội cộng đồng người Việt hải ngoại vì một cái
hamburger hay một cái hot dog! Họ chỉ đủ tư cách đại diện cho cộng đồng, Hải Quân
và Quân Lực…Congo thôi!
Nếu họ có thể bưng bô
và đội sớ cho ngoại bang được thì tại sao họ không thể đội sớ và bưng bô cho
CSBV, vì CSBV cũng là quân ngoại xâm, miển sao có lợi cho họ là được rồi? Danh
dự ư? Đã là Việt Gian rồi thì
làm gì có danh dự? Nếu có danh dự thì làm sao làm Việt
Gian được? Như chúng ta rất đau lòng được
biết:
đã có một số Việt Gian thuộc đủ mọi
thành phần của cộng đồng tị nạn CS của người Việt trở về Việt Nam, rất hân hoan
và hảnh diện bưng bô và đội sớ cho CSBV rồi, chỉ vì một hòn xôi!
Không lẻ tinh thần của
người Việt tị nạn CS ở hải ngoại chỉ có thế? Bưng Bô và Đội Sớ?
Như vậy thì đi tị nạn
làm gì?
Cứ ở lại VN bưng bô và đội sớ cho CS cho
đở nhục quốc thể?
So với “một bọn giết mướn đáng nguyền rủa” hay
“những tai say bản xứ” thì bọn này (BTC, bọn vổ ngực tự xưng là đại diện cho cộng
đồng tị nạn Việt Nam, đại diện cho HQVNCH và đại diện cho QLVNCH) có khác gì đâu?
chỉ có khác địa điểm thôi, còn hành động thì đều đốn mạt, làm nhục quốc thể và
phản quốc như nhau, vì đầu óc vọng ngoại (“bụt nhà không thiêng”)!
“Đừng nghe những gì họ
nói, mà hảy nhìn kỷ những gì họ làm” (xin mượn và sữa
lại cho hợp tình hợp cảnh câu nói bất hủ của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu: “Đừng
nghe những gì CS nói, mà hảy nhìn kỷ những gì CS làm”). Thật ra, bọn này có khác
gì bọn CS đâu? Có lẻ họ còn nguy hiểm hơn CS nữa vì họ là “giòi trong ruột”, còn
CS là “giòi bên ngoài”!
b.
GIÒI VIỆT NAM:
Trong lịch sử Việt
Nam có những trường hợp “Cổng rắn về cắn gà nhà” như sau:
(1).
Năm 207 trước Tây Lịch: An Dương Vưong gả Mỵ Nương cho Trọng Thủy (TT) (Tàu).
TT vào thành Cổ Loa tráo “nỏ thần”, nên Triệu Đà (Tàu) xua quân chiếm Nam Việt
(tên của Việt Nam thời bấy giờ).
(2).
Năm 938 sau Tây Lịch, Kiều Công Tiển sang cầu cứu quân Nam Hán (Tàu). Thái Tử
Hoàng Thao đưa quân sang gần tới sông Bạch Đằng thì Ngô Quyền đã giết được Kiều
Công Tiển. Sau đó, Ngô Quyền cho đóng cọc trên sông Bạch Đằng, dụ và phá quân
Nam Hán, giết chết Hoàng Thao, giải phóng nước nhà khỏi ách đô hộ của Tàu. (350
năm sau, năm 1288, Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn cũng dùng chiến thuật này
để thắng quân Nguyên (Tàu).
(3).
Thế kỷ 18, Lê Chiêu Thống rước Tàu về bị Quang Trung Đại Đế diệt tan.
(4). Cuối Thế kỷ 20, đầu Thế kỷ 21,
CSBV rước Tàu vào Việt Nam, dâng đất và biển, hải đảo cho Tàu…Chờ xem ai sẽ diệt Tàu…lần này.
Những
thành phần trên đây, mặc dù họ là người Việt Nam, nhưng họ đã “cổng rắn về cắn
gà nhà” hay “rước voi về dày mã tổ”, những con rắn và con voi đó lại là kẻ thù
truyền kiếp của dân tộc ta, nên chúng ta đồng hóa họ với những con rắn và con
voi đó, kẻ thù truyền kiếp, là “giòi bên ngoài” chứ không phải là “giòi trong
ruột giòi ra” (giòi Việt Nam).
“Giòi
trong ruột” phải là, như tên của nó, giòi ở ngay trong ruột. “Giòi trong ruột”
của VNCH phải là những người sống bên trong VNCH, trong “ruột” VNCH, . Ở đây
khi nói VNCH, tác giả chỉ muốn nói tới Đệ Nhất Cộng Hòa dưới thời Tổng Thống
Ngô Đình Diệm, khoảng thời gian từ 26 tháng 10, 1955 tới 01 tháng 11, 1963, chứ
không phải nói tới Đệ Nhị Cộng Hòa hay VNCH2, ngoại trừ dùng VNCH để chỉ miền
Nam Việt Nam (khác với CSBV). Tác giả sẽ giải thích ở phần sau, mục GHI CHÚ, lý do tại sao.
1. ĐẢO CHÁNH: Tại sao Đệ Nhất Cộng Hòa
bị khai tử?
Theo lý do nêu lên của phe đảo chánh
ngày 01 tháng 11, 1963 thì chính quyền của Tổng Thống Ngô Đình Diệm phạm vào
các trọng tội sau đây:
(a). Độc tài
(b). Gia đình trị
(c). Đàn áp Phật Giáo
(d). Muốn thỏa hiệp với CSBV
Tác giả không muốn bào
chửa cho Tổng Thống Ngô Đình Diệm (TT/NĐD) (dù có muốn cũng không đủ khả năng
và tư cách), nhưng cần phải nói lên sự nhận xét và suy luận của mình về những
cáo buộc trên đây, dựa vào những tài liệu đã được giải mật để hy vọng tìm ra “những
lý do thật sự” của cuộc đảo chánh (01 tháng 11, 1963)
và hậu quả thảm hại, khốc liệt của nó đã đưa miền Nam Việt Nam tới ngày diệt
vong 30 tháng 04, 1975.
(a). Độc tài:
Một chế độ mới thai nghén từ nền Quân Chủ sang Dân chủ, và ngày đêm phải vừa chống
đở “quân xâm lược CSBV” (MTGPMN) vừa dẹp “loạn sứ quân” (Bình Xuyên (nắm CSQG),
Hòa Hảo, Cao Đài (hùng cứ địa phương)…
và bọn tay sai của thực dân Pháp (Trung Tướng Nguyễn Văn Hinh, TMT quân
Đội)… nếu có độc đoán một chút như hầu hết các quốc gia phải đương đầu với hiểm
họa CS. Điều đó không ai chối cải và cũng chấp nhận như một sự cần thiết giai
đoạn để giữ gìn an ninh trật tự xã hội, cho chế độ dân chủ còn quá mới mẻ với
dân chúng, dễ bị CS lợi dụng xúi dục làm xáo trộn. Chúng ta nên nhớ Đài Loan đã
áp dụng chế độ thiết quân lực gần 35 năm, từ năm 1951 và chỉ mới bải bỏ năm
1986. Chế độ thiết quân lực chỉ mới được áp dụng có mấy tháng dưới thời Đệ Nhất
Cộng Hòa, do giới tướng lảnh đề nghị (để di chuyển quân vào Sàigòn đảo chánh
TT/NĐD!).
(b). Gia đình trị:
Thật sự thì anh em của TT/NĐD như Ngô Đình Thục, Ngô Đình Nhu, Ngô Đình Cẩn không
có giữ một chức vụ gì chánh thức hay quan trọng có thù lao trong chính phủ.
Ngoài ra, chúng ta hảy nghe William Colby, trùm CIA tiết lộ trong cuốn hồi ký của
ông ta: “Lost Victory” (Chiến Thắng đã mất)
“Vào
năm 1962, trước khi tôi rời Sàigòn, CIA đã gài người vào từ cửa trước tới cửa
sau của Dinh Độc Lập (tức là toàn thể Dinh Độc Lập) cho đến các cộng đồng thôn
xã, trong hàng ngũ chỉ huy tối cao của quân đội (Tổng Thống, Tổng Trưởng Quốc
Phòng, Tổng Tham Mưu Trưởng…), trong các cấp chỉ huy của các đơn vị quân đội
(Tư Lệnh Quân Khu, Tư Lệnh Quân, Binh Chủng, Sư Đoàn, Trung Đoàn, Tiểu Đoàn…)
cũng như trong giới chính trị đối lập trên khắp lảnh thổ Việt Nam”
(Nam Việt Nam)
Đó
là chưa kể một số không nhỏ điệp viên của CSBV hay đã bị CSBV mua chuộc hay bắt
chẹt làm việc cho chúng (CSBV cho biết tổng số từ 20,000 tới 30,000 người) (Đặc
San 2012 của HAH/NVQG/HN, trang 191), và những người nằm vùng của thành phần chống
đối đã được gài vào những cơ quan kể trên…
Trong
trường hợp như vậy, TT/NĐD còn có thể “tin ai” hay chỉ còn cách xử dụng “người
nhà” để bảo mật, để bảo vệ bí mật quốc phòng? Chúng ta nên thông cảm với
TT/NĐD, vì là trường hợp bất khả kháng, bị Mỹ, CSBV và những người chống đối
bao vây, gài người, xúi dục, gây rối loạn và bất ổn chính trị và an ninh quốc
gia, âm mưu lật đỗ và ám sát Tổng Thống, nhằm tạo nên một tình trạng khủng hoảng
lảnh đạo trong một nước đang cần sự ổn định để chiến đấu chống Cộng [với mục
đích: (Mỹ) thay thế cấp lảnh đạo bằng một người “gọi dạ, bảo vâng”; (CSBV)
khuynh đảo để cướp chính quyền; (Đối Lập) “tranh dành quyền hành” hay “kiếm ghế”,
“kiếm tiền” …]. Ở vào địa vị của TT/NĐD
trong lúc đó, chúng ta có làm gì khác hơn không?
(c). Đàn Áp Phật Giáo:
Ngày 04 tháng 10, 1963 TT/NĐD đã chỉ thị
cho Đại sứ Bửu Hội mời LHQ cử một phái
đoàn đến VNCH để điều tra và tìm hiểu sự thật về cáo buộc chính phủ “kỳ thị tôn giáo” và “đàn áp Phật Giáo”. LHQ
đã chấp nhận lời mời và cử một phái đoàn gồm đại diện của bảy (07) quốc gia
thành viên của LHQ (Afghanistan, Brazil, Costa Rica, Dahomey, Morocco, Ceylon,
Nepal) và cô Marguerite Higgins (phóng viên được giải thưởng Pulitzer 1951, đặc
trách về VNCH của báo Newsday) đến VNCH bắt đầu điều tra từ ngày 24 tháng 10,
1963 và rời Việt Nam ngày 04 tháng 11, 1963 nhưng tới ngày 09 tháng 12, 1963 mới
hoàn tất bản phúc trình dài 323 trang (kể cả phụ lục). Kết quả là
“Không có kỳ thị tôn
giáo hay đàn áp Phật Giáo” tại VNCH”.
Đại
sứ Fernando Volio Jimenez của Costa Rica trong Ủy Ban Điều Tra Sự Thật của LHQ
viết như sau:
“Nếu
dựa trên những tin tức đã xuất hiện trên báo chí thế giới, tôi đã sửa soạn và sẳn
sàng bỏ phiếu lên án chính quyền Ngô Đình Diệm…Nhưng sau hai tuần lễ tích cực
điều tra tại Việt Nam, tôi nghĩ rằng: với những bằng chứng đã thu thập được đã
chứng tỏ rằng không hề có vấn đề kỳ thị tôn giáo hoặc xâm phạm quyền tự do tôn
giáo…”
“Lời
buộc tội tại Đại Hội Đồng LHQ đối với Chính quyền Diệm dã không thể tồn tại…vì
những bằng chứng thu thập được đã chứng tỏ rằng không hề có vấn đề kỳ thị tôn
giáo hoặc xâm phạm quyền tự do tôn giáo”
(Phúc trình của Ủy Ban Điều Tra Sự Thật của
LHQ, trang Vi) [trước khi gửi Phái Đoàn Điều Tra Sự Thật tới VNCH (theo lời mời
của VNCH), 16 thành viên của LHQ đã lên án VNCH vi phạm nhân quyền (căn cứ vào
tin tức báo chí và Bộ Ngoại Giao Mỹ), nhưng
đã “không
còn lên án nữa” sau khi đọc bản phúc trình].
Phúc trình này của LHQ đã bị hầu hết báo chí
thế giớí “lờ” đi cho tới ngày 20 tháng 12, 1963 khi Đại sứ Fernando Valio
Jimenez của Costa Rica (một thành viên của phái đoàn điều tra sự thật của LHQ)
trả lời phỏng vấn của Cơ Quan Thông Tin NCWC, lúc đó thế giới mới chú tâm.
Bộ Ngoại Giao Mỹ lo sợ phải tìm
cách ém nhẹm phúc trình này của phái đoàn điều tra LHQ, vì quá mất mặt: âm mưu
vu khống chính phủ Ngô Đình Diệm đã bị bại lộ
[Lodge
in Vietnam (Đại sứ (Cabot) Lodge ở Việt Nam) của Anne Blair, trang 78].
Ngày 17 tháng 02, 1964, sau khi đọc được phúc
trình này của LHQ, Thượng nghị sĩ Thomas J Dodd, Chủ Tịch Ủy Ban Tư Pháp Thượng
Viện Hoa Kỳ, đã trình cho Thượng nghị sĩ James Eastland, chủ tịch Ủy Ban An
Ninh Nội Bộ của Thượng Nghị Viện Mỹ,
yêu cầu thông báo cho dân chúng Mỹ
biết là họ đã bị hướng dẩn sai lầm (tức bị gạt) về tình hình Việt Nam.
Cũng nên biết thêm là (theo bản phúc trình của
phái đoàn điều tra LHQ) trong suốt thời gian điều tra, phái đoàn hoàn toàn được
phép đến bất cứ nơi nào mà phái đoàn muốn tới và gặp bất cứ ai mà phái đoàn muốn
gặp kể cả Thượng Toạ Thích Trí Quang là người hăng sai nhất chống TT/NĐD [Thượng
tọa Thích Trí Quang đã trả lời cô Marguerite Higgins tháp tùng theo phái đoàn
như sau:
“Chúng tôi chỉ có thể dàn xếp với
miền Bắc (CSBV) sau khi lật đổ Diệm và Nhu”.
(Phúc Trình của Ủy Ban
Điều Tra Sự Thật của LHQ, trang Vii).
Câu tuyên bố này không chứng minh được cuộc
tranh đấu năm 1963 của Phật Giáo là vì vấn đề kỳ thị tôn giáo mà là bằng chứng
hùng hồn công khai xác nhận đó là cuộc tranh đấu vì mục tiêu chính trị]. Về câu
tuyên bố này của Thượng Tọa Thích Trí Quang, người cầm đầu cuộc đấu tranh và xuống
đường của Phật Giáo, Thượng nghi sĩ
Thomas J Dodd, Chủ tịch Ủy Ban Tư Pháp của Thượng viện Hoa Kỳ viết như
sau:
“Giờ đây, chúng ta (Quốc Hội và Nhân
Dân Hoa Kỳ) lại là nạn nhân của một sự lừa dối khác (họ được báo cáo là những vụ
tự thiêu và xuống đường rầm rộ của Phật Giáo là vì vấn đề kỳ thị tôn giáo).
Đặc
biệt là phái đoàn đã không phỏng vấn bất cứ một giới chức Công Giáo nào hay một
tín đồ Công giáo nào. Do đó, những người muốn bênh vực TT/NĐD không có cơ hội để
bênh vực TT/NĐD hay gây ấn tượng tốt với phái đoàn điều tra sự thật của LHQ.
Vì vậy,
bản tường trình của phái đoàn điều tra sự thật của LHQ,
một tổ chức vô tư với VNCH [hay không có thiện cảm với VNCH, vì trước khi gởi
phái đoàn điều tra (theo lời mời của VNCH) có 16 thành viên LHQ, dựa trên tin tức
xuyên tạc của báo chí và Bộ Ngoại Giao Mỹ, đã lên tiếng chỉ trích VNCH kỳ thị
và đàn áp tôn giáo, và đề nghị Đại Hội Đồng LHQ
thảo luận để lên án VNCH vi phạm nhân quyền (trong phái đoàn điều tra sự
thật của LHQ có đại diện của những thành viên chỉ trích này] có thể tin được.
(d). Muốn thỏa hiệp với
CSBV:
Trong cuộc đảo chánh ngày 01 tháng 11. 1963,
phe đảo chánh có cho phát thanh và nhắc đi nhắc lại ngày đêm những lý do mà phe
đảo chánh cần phải lật đỗ chế độ Ngô Đình Diệm, ngoài 3 lý do nêu trên, còn có
lý do vì “Chính Phủ Ngô Đình Diệm muốn thỏa hiệp với CSBV”. Đây là lý do chính,
quan trọng nhất của phe đảo chánh và là lời buộc tội nặng nhất cho TT/NĐD (nếu
đúng như lời họp báo của Tướng Tôn Thất Đính sau đây)
Ngày
07 tháng 11, 1963, Tướng Tôn Thất Đính, Tổng Trưởng bộ An Ninh (sau ngày đảo
chánh 01 tháng 11, 1963) họp báo, nói rằng:
“Tướng Lảnh phải đảo chánh vì Diệm Nhu đã
điều đình với CS, phản bội lại mục tiêu chống CS của QLVNCH và toàn dân miền
Nam Việt Nam”.
[Một
đòn cực độc! (vì khi nghe như vậy, QLVNCH và nhân dân miền Nam có ai không cho
là TT/NĐD “ phản bội họ” và “phản quốc” (nếu đúng sự thật) và
phe đảo chánh “có lý do chính đáng” để đảo chánh!…
Nhưng
sự thật không phải như vậy!]
(d1). Theo bản tóm lược về mục tiêu của Mỹ trong cuộc
chiến tranh Việt Nam của Hội Đồng An Ninh Quốc Gia Mỹ tháng 09, 1963, lưu trữ tại
Thư Viện John F. Kennedy, thì Hội
Đồng An Ninh Quốc Gia Mỹ chỉ thị cho cơ quan CIA Mỹ:
“Ngụy
tạo một tài liệu để liên kết Nhu (Ngô
Đình Nhu) với Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (CSBV), nhằm làm mất uy tín của ông ta
đối với các tướng lảnh”
(d2). Ngày 01 tháng 11, 1963 tại Mỹ (nhằm
ngày 02 tháng 11 ở Việt Nam, TT/NĐD đã bị giết), Ngoại Trưởng Mỹ Dean Rusk gửi
điện văn số 674 cho Tòa Đại Sứ Mỹ ở Sàigòn có nội dung như sau:
“ ….nếu các tướng lảnh (phe đảo
chánh) và những cộng sự viên dân sự của họ tiếp tục khai thác một cách mạnh mẽ và công khai cáo buộc (do
CIA của Mỹ ngụy tạo) mà họ đã cho phát thanh trước đây rằng Nhu (Ngô Đình Nhu)
đã mặc cả với Cộng Sản để phản bội sự nghiệp chống Cộng thì giá trị của cáo buộc
này càng cao. Cần phải nhấn mạnh về giá trị cao của cáo buộc này với họ càng sớm
càng tốt”
(d3). Trong cuốn sách “A death in
November” (Một cái chết trong tháng 11), Tiến sĩ Ellen Joy Hammer, sử gia của Mỹ chuyên nghiên
cứu về lịch sử Việt Nam trong thế kỷ 20 đã bỏ ra 30 năm tìm tài liệu để viết về
những biến chuyển ở Việt Nam trong thập niên 1956-1966, đã tìm thấy trong hồ sơ
mật của Toà Bạch Ốc (đã giải mật)
về
tin đồn ông Nhu (Ngô Đình Nhu) bí mật thương thuyết với CSBV là hoàn toàn sai.
Bà dẩn chứng hai (02) tài liệu sau đây:
(1) Văn
thư của Roger Hilsman (Giám Đốc Văn Phòng Tình Báo và Nghiên cứu của Bộ Ngoại
Giao Mỹ (INR) và điện tín của Mc George Bandy (Cố Vấn An Ninh Quốc Gia của Tổng
Thống Mỹ Kennedy và Johnson) gửi cho Đại Sứ Mỹ Cabot Lodge ở Việt Nam nhắc nhở
phải dạy cho tướng lảnh Việt Nam
(phe đảo chánh) cách thức “phao tin đồn” về việc ông Nhu bí mật thương thuyết với
CSBV.
(2) Qua
trung gian của Mieczyslaw Maneli của Ba Lan và Goburdhum của Ấn Độ trong Ủy Ban
Kiểm Soát Đình Chiến (tại Việt Nam), chính Hồ Chí Minh đề
nghị hiệp thương với miền Nam để miền Bắc nhận được gạo
của miền Nam cho miền Bắc đang đói kém và miền Nam nhận được than đá của miền Bắc.
(VNCH không trả lời) (như vậy thì ông Nhu có lỗi gì?)
“Sự
Thật” như thế nào?
Như chúng ta đã thấy, ngay từ tháng 09, 1963, Hội Đồng
An Ninh Quốc Gia (Mỹ) đã ra chỉ thị cho
CIA
(Mỹ) ngụy tạo tài liệu
để lên án ông Nhu bí mật thương thuyết với CSBV,
và sau đó Roger Hilsman và Mc George Bandy gửi
văn thư và điện tín nhắc nhở Đại Sứ Cabot Lodge phải “dạy” cho các tướng lảnh
(đảo chánh) Việt (to teach Viet Generals) cách thức phao tin đồn
thất thiệt (how to spread out “rumors”) để lừa dối
QLVNCH, nhân dân miền Nam Việt Nam, nhân dân Mỹ, các nước Á Phi và thế giới,
cho cuộc đảo chánh mà họ (Mỹ và một số tướng lảnh Việt) đang âm mưu thực hiện tại
Sàigòn (ngày 01 tháng 11, 1963). Rồi đến ngày 01 tháng 11, 1963 (nhằm ngày
02/11/1963 ở VN), Ngoại Trưởng Mỹ Dean Rusk gửi điện văn cho Cabot Lodge, Đại Sứ
Mỹ ở Việt Nam,
“ phải nhắc nhở các tướng lảnh đảo
chánh tiếp tục khai thác mạnh mẻ và công khai cáo buộc ông Nhu muốn hợp tác với
CSBV mà họ đã cho phát thanh” (do CIA Mỹ ngụy tạo theo chỉ thị của Hội Đồng
An Ninh Quốc gia Mỹ)
Khi phát thanh và họp báo, các tướng lảnh
đảo chánh của Việt Nam hay “những tay sai bản xứ” hay “một bọn giết mướng đán
nguyền rủa” đã
làm
theo lời dạy của Đại Sứ Mỹ Cabot Lodge,
Như vậy, lý do thứ 4. “Muốn hợp tác với CSBV”
là hoàn toàn không có thật, hoàn toàn bịa đăt và do CIA Mỹ ngụy tạo tài liệu để
cho phe đảo chánh có lý do đảo chánh.
Căn
cứ vào những lý do kể trên, thì
“Tất cả bốn (04) lý do
nêu ra bởi phe đảo chánh (do Mỹ soạn, thổi phồng hay ngụy tạo) đều
không đúng sự thật hay có đúng phần nào thì cũng chỉ ở mức độ có thể chấp nhận được
(tức “khinh tội”) trong hoàn cảnh đặc biệt
của xứ sở lúc đó, chứ không phải “trọng tội”, và chắc chắn không phải là tội “tử
hình”.
Chúng ta phải đồng ý rằng trên thế giới
này không có một chính phủ nào hoàn hảo hay hoàn toàn đúng 100% (cứ xem chính
phủ Mỹ có “đúng” 100% không?). Thế nào cũng có một số khuyết điểm, do cá nhân
hay đường lối lảnh đạo, hay do hiểu lầm (vì bị lừa dối hay xuyên tạc)… Lẻ dĩ
nhiên, người lảnh đạo phải chịu trách nhiệm hết những lỗi lầm đó…Chúng ta hảy
nghe Bộ Trưởng Ngoại Giao của VNCH tuyên bố với phái đoàn điều tra sự thật của
LHQ:
“Chính phủ có thể không hoàn hảo,
cũng như các viên chức trong chính phủ không phải là những ông thánh. Chúng tôi
sẽ lắng nghe những ý kiến của quý vị và sẽ cố gắng sửa đổi những khuyết điểm”
(Đặc San 2012 của HAH/NVQG/HN, trang 221)
[lời tuyên bố này chứng
tỏ là chính phủ Ngô Đình Diệm nhìn nhận mình không hoàn hảo và sẳn sàng sữa đổi
những khuyết điểm, nếu có (do phái đoàn điều tra sự thật của LHQ tìm thấy) và chịu
trách nhiệm về những khuyết điểm đó.
Chính phủ của TT/NĐD đã
tỏ ra có tinh thần trách nhiệm, thành thật muốn sữa đổi, biết phục thiện và cầu
tiến.]
Nhưng khi “luận tội” thì không
nên quên “luận công”… Có như vậy thì mới “thưởng phạt” phân minh. Không nghe
phe đảo chánh nói gì tới “công” của TT/NĐD. Không lẻ trong chin (09) năm nắm
chính quyền (1954-1963), TT/NĐD chỉ làm ra “tội” (khinh tội) không thôi? Hoàn
toàn không có “công”? Sau đây là một số
thành tích của Đệ Nhất Cộng Hòa mà những người “có công tâm”,“bàng quan”, “vô
tư” , “không thiên vị”, v.v,,, không ai có thể chối cải được:
1. Định
cư cả triệu đồng bào miền Bắc di cư vào miền Nam tị nạn Cộng Sản
2. Dẹp
tan tình trạng “12 sứ quân”
3. Dành
lại chủ quyền Quốc gia, rút ra khỏi Liên Hiệp Pháp, thành lập VNCH
4. Bầu
Quốc Hội Lập Hiến và Quốc Hội Lập Pháp
5. Cải
tổ Quân Đội Quốc Gia thành Quân Đội VNCH
6. Chiến
Dịch Tố Cộng [Bộ Chính Trị của CSBV nhìn nhận là từ năm 1955 tới năm 1958 (tức
là dưới thời TT/NĐD), đảng CS đã mất 90% cán bộ (từ
60,000 chỉ còn 5,000) và đã cầu cứu Hà Nội tiếp tế người và vũ khí gấp, nếu
không sẽ bị tiêu diệt]
7. Quốc
Sách Ấp Chiến Lươc (đầu năm 1963, CS ra lệnh cho cán bộ của họ “bằng
mọi giá phải phá tan quốc sách “Ấp Chiến Lược”
của VNCH) (Nếu quốc sách “Ấp Chiến Lược” của VNCH không hửu
hiệu thì tại sao CS lại sợ hải đến như vậy, và ra lệnh phải phá tan bằng mọi
giá?)
8. Cải tổ chương trình giáo dục từ Tiểu Học tới Đại
Học
9. Xây
thêm trường như Trung Học Chu Văn An, Trung Học Nguyễn Trải, Học Viện Quốc Gia
Hành Chánh, Trường Vỏ Bị Quốc Gia Việt Nam, Viện Đại Học Huế, Viện Đại Học Cần
Thơ…
10. Xây
thêm, tu bổ chùa và nhà thờ cho các tôn giáo…
11. Xây
thêm, tu bổ bệnh viện, đường sá, cầu cống…
12. Đem
lại đời sống tươi thắm ấm no cho dân chúng miền Nam qua các chương trình kiến
thiết quốc gia và phát triển kinh tế…
13. Mở
rộng ban giao quốc tế …
14. Chuẩn
bị cho cuộc chiến “ý thức hệ” với Cộng Sản bằng cách thành lập:
a. Đảng
Cần Lao
b. Phong
Trào Cách Mạng Quốc Gia
c. Lực
Lượng Công Dân Vụ
d. Đoàn
Thanh Niên và Thanh Nữ Cộng Hòa
e. Áp
dụng triết lý “Vạn Thế Sư Biểu” (Khổng
Phu Tử)
2.
VÀI NHẬN XÉT VỀ TỔNG THỐNG NGÔ
ĐÌNH DIỆM CỦA BẠN VÀ THÙ
Tháng 1, 1956, tuần báo Economist của Anh viết:
“Từ một tình thế dường như tuyệt vọng trước đó
18 tháng, TT/NĐD đã mang lại được một trật tự và một sự yên ổn có thể làm cho
Miến Điện, Nam Dương và ngay cả Mã Lai nữa, thèm muốn. Nhưng công việc còn phải
làm sẽ rất nhiều và gian nan” (Vietnam Crisis, trang
80)
TT/NĐD đã phục vụ đắc lực
cho Tổ Quốc Việt Nam, đã có công ơn lớn đối với nhân dân miền Nam Việt Nam bằng
Công Cuộc Xây Dựng Tự Do, Thanh Bình và Phồn Thịnh tại miền Nam.
Suốt thời gian 30 năm
(từ 1945 tới 1975), Việt Nam trải qua rất nhiều chính phủ, nhưng chỉ có chính
phủ Ngô Đình Diệm (09 năm) là chính phủ hữu hiệu nhất (điều này không ai có thể
chối cải được). Là người Việt Nam đã từng sống qua thời kỳ ấy (VNCH), ai cũng
phải công tâm nhìn thấy được một miền Nam Thanh Bình, Tự Do, Ấm No thật sự.
Chính phủ Ngô Đình Diệm là một chính phủ hợp hiến, hợp pháp, triệt để chống Cộng,
có chủ quyền và có chính nghĩa, trên đà chiến thắng du kích quân CS, và có hiệu
năng phát triển kinh tế cao…VNCH là một quốc gia ổn định, có kỷ cương và luật
pháp công minh…”
. Măc
dù phải đối đầu với cuộc chiến tranh phá hoại khủng khiếp nhất của CS,
VNCH đã đạt được một chỉ số phát triển
kinh tế nhanh nhất và ổn định nhất trong vùng”
(“From Trust to Tragedy” của Đại Sứ Nolting, trang 7)…khiến
cho cả thế giới phải ngưởng mộ và nể nang, kể cả kẻ thù CS và đồng minh Mỹ
(mặc
dù họ không ưa TT/NĐD).
Đã là con người thì không có ai “hoàn hảo” hay
là “chân thiện mỹ” cả, TT/NĐD cũng vậy, cũng không sao tránh khỏi “phạm” một số
sai lầm nào đó…hay phải “chịu trách nhiệm” về một số sai lầm nào đó (có thể chấp
nhận được trong hoàn cảnh đặc biệt của đất nước) của những người do ông lảnh đạo…Tuy
nhiên,
Trên
cán cân “CÔNG và TỘI” của TT/NĐD, có lẻ cán cân sẽ nghiêng hẳn về “CÔNG”
(d) Về
vấn đề này, Tiến sĩ Ronald Franrum tỏ
ra rất hiểu biết, viết riêng cho BBC Vietnnamese.com như
sau:
“Dù có một số thành
công, một vài thất bại, Ngô Đình Diệm đã lảnh đạo đất nước theo cách tốt nhất
có thể làm được trong hoàn cảnh chiến tranh và cách mạng mà ông phải đối đầu
hàng ngày”
(Tiến sĩ Franrum còn
quên là, hàng ngày, TT/NĐD còn phải đối đầu với “giòi
trong ruột giòi ra” , nguy hiểm gấp bội nữa!)
Tổng Thống Kennedy của
Mỹ, người đã ra lệnh đảo chánh TT/NĐD, cũng phải công nhận hai (02) ông Diệm, Nhu
là hai (02) người đã hết lòng với đất nước. Khi bà Mary Gimbel buộc tội hai
(02) ông Diệm, Nhu là bạo chúa, Tổng Thống Kennedy đã bảo rằng:
“Không phải thế đâu.
Hai (02) ông ấy gặp hoàn cảnh khó khăn. Họ đã làm những điều tốt đẹp nhất cho xứ
sở của họ”
Tổng Thống Nixon nhận
xét :
“Chúng ta đã không tiên
liệu được những hậu quả tai hại xảy ra sau khi ra lệnh đảo chánh vị Tổng Thống
đáng kính và có khả năng Ngô Đình Diệm”
Tướng Thomas Lane của Mỹ
so sánh:
“Ngô Đình Diệm quả là một
trong số những vĩ nhân của thế kỷ 20. Xét về mặt khôn ngoan, đạo đức và thành
công trước những khó khăn dồn dập, tài lảnh đạo và lòng yêu nước của ông đã lên
đến chỗ tuyệt đỉnh. So sánh thì thấy tài cán của các chính khách Mỹ, cả trong
ngành Hành Pháp lẫn Lập Pháp đều tầm thường hết”
Vua Bảo Đại trả lời báo
chí:
“Ông Diệm là người yêu nước.
Lúc trao quyền, tôi có yêu cầu ông ấy cam kết hai (02) điều trước bàn thờ thiên
chúa, vì ông rất mộ đạo, là phải giữ vửng miền Nam, và nếu không làm được sứ mạng
ấy thì phải trao quyền lại cho tôi. Nhưng rồi ông ta chết khi thi hành nhiệm vụ.
Dù sao, ông ta cũng cố sức giữ những lời cam kết ấy mà không được”
Tổng Thống Tưởng Giới
Thạch của Trung Hoa Dân Quốc (Đái Loan) nhận xét:
“Người Mỹ có trách nhiệm
nặng nề trong vụ ám sát xấu xa này. Trung Hoa Dân Quốc mất đi một đồng chí tâm
đầu ý hợp…Tôi khâm phục ông Diệm. Ông xứng đáng là một lảnh tụ lớn của
Á Châu. Việt Nam có lẻ phải mất 100 năm nữa mới tìm được một lảnh tụ cao quí như
vậy”
Ngày 12 tháng 04, 1975
, Thủ Tướng Cao Miên là Sirik Matak đã từ chối ra đi (tị nạn) theo đề nghị của Đại
Sứ Mỹ John Gunther Dean tại Nam Vang như sau:
“…Tôi phải chết ở đây
và ở tại đất nước mà tôi yêu dấu…Tôi chỉ ân hận là đã phạm một sai lầm lớn khi
đặt lòng tin tuyệt đối nơi ngưới Mỹ”
(Vài ngày sau, ông bị bắt
và quân Khờ Me Đỏ đã hành quyết ông ta). Trước đó, ông cũng đã cay đắng rằng:
“Làm kẻ thù của Mỹ còn
được Mỹ tôn trọng, chứ làm bạn với Mỹ thì rất nguy hiểm”
Thủ tướng Pakistan là
Ayoub Khan phát biểu:
“Làm Đồng Minh với Hoa
Kỳ thật nguy hiểm. Tốt hơn nên Trung Lập hoặc làm Kẻ Thù”
Khi Tổng Thống Johnson
muốn trả thù Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu vì ông Thiệu đã giúp Tổng Thống Nixon
thắng cử, Henry Kissinger đã khuyên Tổng Thống Johnson không nên làm như vậy vì
sẽ bị mang tiếng:
“Rất khó làm kẻ thù của
Mỹ, nhưng làm đồng minh của Mỹ thì chết chắc”
(Bốn nhận xét trên đây
cho ta thấy sự thật phũ phàng về đồng minh Mỹ)
Hai nghị sĩ có tiếng nói
mạnh của Quốc Hội Mỹ là William Fulbright và Everett Dirksen nói rằng:
“Quyết định hạ sát ông Diệm là một sự sai
lầm”
Ngày 03 tháng 01, 1965,
nghị sĩ Mike Mansfield tuyên bố với hai (02) tác giả Stephen Pan và Daniel
Lyons:
“Chúng tôi đã đền tội
vì đã loại trừ ông Diệm”
Ngày 26 tháng 01, 1966,
nghị sĩ Mike Mansfield lại nói với hai (02) tác giả kể trên:
“Lỗi lầm tồi tệ nhất của
chúng tôi là đã hạ sát ông Diệm”
[Vietnam Crisis (Cuộc
khủng hoảng ở Việt Nam), trang 133. Đây là câu trả lời cho câu hỏi “Ai giết
TT/NĐD” và bằng chứng Hành Pháp và Lập Pháp Mỹ bắt tay nhau để “giết” TT/NĐD. Hành
động này được lập lại năm 1975 để “bức tử” VNCH].
Theo hồ sơ của Hội Đồng
An Ninh Quốc Gia của Mỹ lưu trử tại Thư Viện John F. Kennedy, thì:
“Cuộc lật đỗ chính quyền Ngô Đình Diệm năm
1963 là do chính quyền Kennedy chủ trương, chủ mưu, chủ xướng, chủ động, chủ lực,
khuyến khích và thúc đẩy. Các tướng lảnhViệt Nam chỉ là những tay sai bản xứ”
Đây
là sự thật 100% về cuộc đảo chánh ngày 01 tháng 11, 1963 do Mỹ xác nhận (kể cả
“Ai đã hạ sát TT/NĐD”). Không còn gì để tranh cải nữa!
Đây là mệnh lệnh của Tổng
Thống Kennedy:
“Một khi cuộc đảo chánh
đã bắt đầu, cuộc đảo chánh ấy phải thành công, vì đó là quyền lợi của Hoa Kỳ”
[3,500 TQLC Mỹ (một Lữ Đoàn
hay 3 Tiểu Đoàn) đã được điều động tới ngoài khơi Vủng Tàu để can thiệp nếu phe
đảo chánh bị yếu thế, vì cuộc đảo chánh phải thành công, vì đó là quyền lợi của
Hoa Kỳ) (TT Kennedy).
Ngày 29/09/2010, trong
một buổi hợp tai Bộ NGoại Giao Hoa Kỳ, cựu Ngoại Trưỏng Henry Kissinger công
khai nhìn nhận sự sai lầm chính sách Hoa Kỳ tại Việt Nam. Chính Hoa Kỳ giao miền
Nam Việt Nam cho CSBV theo chính sách Hoa Kỳ tại Việt Nam và chính sách Hoa Kỳ
đối với Trung Cộng.
(China Policy bắt đầu từ
thời Tổng Thống Nixon và tiếp tục tới gần đây…trước khi các policy makers nhận
thấy và kết luận là China Policy đã hoàn toàn thất bại) (theo Thẩm Phán Nguyễn Đình
Hưng phát biểu ngày 18/02/2012 tại đài truyền hình VHN, OC, CA).
“Việt Nam Chánh Sử” của
Nguyễn Văn Chức, trang 86…viết như sau:
“Như vậy, cuộc đảo
chánh ngày 01 thánh 11 năm 1963 chỉ là một cuộc tạo phản do ngoại bang chủ mưu
nhằm phục vụ quyền lợi của ngoại bang. Cuộc tạo phản đã được thi hành bởi những
tay sai bản xứ. Họ đã nhận tiền của ngoại bang để làm cuộc tạo phản này với giá
3,000,000 đồng Việt Nam. Thật là nhuc! Nhục cho cuộc đảo chánh. Nhục cho
QLVNCH”
CỘNG
SẢN NGHĨ SAO VỀ TỔNG THỐNG NGÔ ĐÌNH DIỆM?
(theo tài liệu của Tôn
Thất Thiện, nhân lễ tưởng niệm TT/NĐD tại Ottawa, Canada, năm 2002)
Hồ Chí Minh trả lời ký
giả CS Wilfrid Burchett khi đươc tin TT/NĐD bị lật đỗ::
“Tôi không thể ngờ rằng
tụi Mỹ ngu đến thế!”
Hồ Chí Minh trả lời báo
chí về cái chết của TT/NĐD:
“Ông ta (TT/NĐD) là một
người yêu nước, tuy rằng ông ta có đường lối riêng của ông ta”
Hồ Chi Minh nói với thuộc
hạ thân tín:
“Ông Diệm là địch thủ
ghê gớm nhất của ta. Nay ông đã bị loại rồi thì chiến thắng chắc chắn sẽ về ta”
Vỏ Nguyên Giáp nói với
Mc Namara ở Hà Nội khi Mc Namara viếng thăm Hà nội (tháng 11, 1995):
“Chính sách Kennedy ở
Việt Nam sai lầm hết chỗ nói. Ngô Đình Diệm là một người có tinh thần quốc gia,
không khi nào ông chịu để cho người Mỹ dành quyền điều khiển chiến tranh, và việc
người Mỹ dành quyền đã đưa người Mỹ đến thất bại đắt giá. Cho nên, kết quả của
cuộc đảo chánh lật đỗ ông Diệm năm 1963 là sự kết thúc sớm sự hiện diện của Hoa
Kỳ ở Việt Nam, một điều đáng làm cho người ta ngạc nhiên”
Đài Phát Thanh Hà Nội:
“Do sự lật đỗ Ngô Đình
Diệm và em ông là Ngô Đình Nhu, tụi đế quốc Mỹ đã tự mình hủy diệt những cơ sở
chính trị mà họ đã mất biết bao nhiêu năm để xây dựng”
Nguyễn Hữu Thọ của
MTGPMN nói với báo Nhân Dân:
“Sự lật đỗ Diệm là một
món quà mà Trời ban cho chúng tôi”
Phó Chủ Tịch Trần Nam
Trung:
“Tụi Mỹ quyết định đổi
ngựa giữa dòng. Chúng sẽ không khi nào tìm được một người hữu hiệu hơn Diệm”
Cựu Đại Tá CSBV Bùi Tín, SQ cao cấp nhất của
CSBV vào Dinh Độc Lập ngày 30 tháng 04. 1975, bây giờ đã ly khai và là nhà báo
tự do ở Paris trả lời phỏng vấn ngày 30 tháng 04, 2008 như sau:
“Đất nước Việt Nam ta
sau ngày 30 tháng 04, 1975 chưa được giải phóng và cũng chưa được thống nhất.
Ngày 30 tháng 04, 1975 chỉ có đảng Cộng Sản thắng, toàn dân vẫn thua, vẫn bị thống
trị bởi độc quyền đảng trị”
Phê bình về TT/NĐD, Bùi
Tín nói:
“Ông Diệm là một nhân vật
chính trị đặc sắc, có lòng yêu nước sâu sắc, có tính cách cương trực, thanh
liêm, nếp sống đạm bạc, giản dị”
Tại Nam Vang, Wilfrit
Burchett, ký giả nổi tiếng của CS nói với Keyes Beech, đặc phái viên của báo
Chicago về cái chết của TT/NĐD:
“ Thật là không thể tin
được, chúng nó đã giết chết người duy nhất có tư tưởng và tổ chức có thể chận
chúng tôi” (CS)
KẾT LUẬN
Căn cứ vào những tài liệu
nêu trên thì lý do đảo chánh không đúng như phe đảo chánh đã đưa ra, mà đó chỉ
là những cái “cớ”
tưởng tượng, bịa đặt, thổi phòng, để vu oan giá họa cho TT/NĐD. Thật ra thì những
lý do đó do Mỹ sáng tác và đưa cho “những tay sai bản xứ” hay “một bọn giết mướn đáng nguyền rủa” (lời của Hội
Đồng An Ninh Quốc gia Mỹ và Tổng Thống Mỹ Johnson gọi nhóm tướng lảnh đảo chánh
Việt Nam) thi hành. Hơn nữa, đó chỉ là một cuộc tạo phản
(theo Việt Nam Chánh Sử), một
cuộc lật đỗ (theo Hội Đồng An Ninh Quốc Gia Hoa Kỳ)
do Mỹ đề xướng, chuẩn bị, soạn thảo, chỉ huy và yểm trợ và một số tướng lảnh phản
phúc Việt Nam thi hành nhằm phục vụ quyền lợi của Mỹ và cá
nhân các tướng lảnh đảo chánh (không phải là một cuộc
đảo chánh thật sự hay một cuộc cách mạng do nhân dân trong nước chủ xướng, phát
động) chứ
không nhằm phục vụ quyền lợi
của Quốc Gia Dân Tộc hay Tổ Quốc Việt Nam!
Cũng căn cứ vào những tài
liệu nêu trên, thì Tổng Thống Ngô Đình Diệm quả là một nhà ái quốc thật sự, một
anh hùng dân tộc thật sự, một nhân tài thật sự của tổ quốc, và là một chiến sĩ đã
“vị quốc vong thân” thật sự vì quyết tâm bảo vệ chủ quyền và chính nghĩa quốc
gia. Vì vậy, “bọn giết mướn đáng nguyền rủa” hay “những tay sai bản xứ”, nhận 3,000,000
VN (42,000 đô la Mỹ) của ngoại bang, đã ra tay giết chết một vị anh hùng dân tộc,
phải là
những tên phản quốc!
Sau đây là tóm lược những
lý do thật sự của việc lật đỗ và thảm sát TT/NĐD:
ĐỐI
VÓI MỸ:
Vì TT/NĐD
1. không đồng ý để Mỹ xen vào nội bộ VNCH (bảo vệ
chủ quyền)
2. không đồng ý để cho Mỹ đỗ quân vào VNCH mà không
có một Hiệp Ước Phòng Thủ Song Phương giữa Mỹ và VNCH như Mỹ đã ký với Nam Hàn,
Nhật Bổn, Trung Hoa Dân Quốc (Đài Loan) và Phi Luật Tân (bảo vệ chủ quyền và chính
nghĩa)
3. làm
hỏng chính sách của Hoa Kỳ về phương diện chiến thuật [Mỹ đánh CS (Search &
Destroy), VNCH giữ an ninh diện địa] (bảo vệ chủ quyền và chính nghĩa)
4. đã
xử sự như Tổng Thống của một nước có chủ quyền, dám cải lời Mỹ (đối với Mỹ là
“vô lễ” và “phạm thượng”) (bảo vệ chủ quyền, chính nghĩa, chính danh và chính
thống)
ĐỐI
VỚI TƯỚNG LẢNH ĐẢO CHÁNH (Việt Nam): Vì
1. Tranh
dành quyền hành (được làm vua, thua làm giặc)
2. Tự
ái (bất mản, trả thù cá nhân)
3. Vọng
ngoại (làm tay sai bản xứ cho ngoại bang vì tiền và danh vọng)
4. Tự
kỷ ám thị (tưởng mình có tài lảnh đạo hơn TT/NĐD)
HẬU QUẢ
Ở đây tạm thời chúng ta
không đi sâu vào chi tiết về quyền lợi của Mỹ và phe đảo chánh mà chỉ muốn xem
qua hậu quả tai hại không lường cho VNCH sau khi TT/NĐD nằm xuống.
“Phá hoại” thì dễ nhưng
“xây dựng” không dễ. Việc hạ sát TT/NĐD gây
ra tình trạng khủng hoảng lảnh đạo (trong một nước đang cần sự ổn định để chiến
đấu chống Cộng Sản và phát triển kinh tế để được độc lập, tự do và phồn thịnh (tự
lực, tự cường).
Sau ngày 01 tháng 11,
1963, miền Nam Việt Nam trở thành hổn loạn về chính trị, suy đồi về kinh tế, và
gần như tuyệt vọng về quân sự khiến người Mỹ chỉ còn cách là phải chọn 1 trong
2 giải pháp:
1.
Chấp
nhận bỏ rơi miền Nam cho CS thôn tính
2. Đem quân đội Mỹ vào trực
tiếp tham chiến để bảo vệ miền Nam.
(“From Trust to
Tragedy” của Đại Sứ Mỹ tại Việt Nam F. Nolting, trang 135)
Đây là lời xác nhận của
Đại sứ Mỹ tại Việt Nam về tình hình tại miền Nam sau ngày 01/11/1963.
Đúng là miệng lưỡi của
nhà ngoại giao Mỹ!
Nghịch
lý thứ nhất: Đem quân đội Mỹ vào trực tiếp tham chiến
để bảo vệ miền Nam vì miền Nam gần như tuyệt vọng về quân sự (1965)? Chí lý!
Nhưng tại sao dưới thời TT/NĐD, khi quân đội
VNCH đang trên đà chiến thắng du kích quân CS (Bộ Chính Trị CSBV nhìn nhận đã mất
90% cán bộ CS tại miền Nam dưới thời TT/NĐD), người Mỹ cũng muốn đem quân vào
VNCH để làm gi? bảo vệ ai?
Nghịch
lý thứ nhì: Người Mỹ không có chọn
1 trong 2 giải pháp nêu trên, mà chọn cà 2: “Đem quân đội Mỹ vào trực
tiếp tham chiến (1965) trước rồi sau đó bỏ rơi miền Nam cho CS thôn tính (1975)”
Rỏ ràng là miệng lưỡi của kẻ mạnh có gan, có
thép, có máu, có giòi, có xảo trá, có ngụy tạo, có ngụy biện, có xuyên tạc và bóp
méo sự thật để biện minh cho hành động bất chính của họ (lấy cứu cánh biện minh
cho phương tiện?). Về phương diện này, chỉ có CS mới có thể tranh với Mỹ!
Phe Quân Đội lần lượt truất phế nhau cùng những
chính phủ dân sự được dựng lên rồi phải rút lui…Trong vòng hai (02) năm đã có
thêm ba (03) cuộc binh biến (31/01/64, 13/09/64, 19/02/65) và sáu (06) chính phủ
(Nguyễn Ngọc Thơ, Nguyễn Khánh, Nguyễn Xuân Oánh, Trần Văn Hương, Phan Huy Quát,
Nguyễn Cao Kỳ). Những tướng lảnh đảo chánh và những chính trị gia đối lập với
TT/NĐD đã có cơ hội ít nhất một (01) lần nắm chính quyền, thành lập chính phủ,
để thi thố tài năng siêu việt xuất chúng của họ (như họ nghĩ), nhưng họ đã chẳng
những không làm được điều gì ích nước lợi dân mà còn thất bại ê chề và phải từ
chức, rút lui, giải tán hay bị bắt buộc phải từ chức, rút lui hay giải tán (“nói”
thì dễ nhưng “làm” không dễ)
Tất cả những xáo trộn
trên đây đều do Mỹ đạo diển để chọn cho được một chính phủ “gọi dạ bảo vâng”
theo đúng ý của Mỹ. Các tướng lảnh đảo chánh, với quân lính và súng ống trong
tay, thừa thắng xông lên, kềm kẹp, đe dọa, phá rối các chính phủ dân sự khiến họ
không làm việc được, bắt buộc phải từ chức, rút lui hay giải tán…để rồi…thành lập
chính phủ quân nhân do mấy ông tướng đảo chánh cầm đầu…rồi tự đề cao là đã ổn định
được chính trị (ai dám chống đối với súng ống) …bằng “ngày quân lực 19 tháng
6”.
Thật khôi hài khi “quân
lực” (mấy ông tướng đảo chánh tự cho họ
là “quân lực”, đại diện cho QLVNCH) làm tay sai bản xứ cho ngoại bang, phản loạn,
giết chết vị tổng tư lịnh của họ, và là nhà lảnh đạo duy nhất hợp hiến, họp pháp
của miền Nam Việt Nam, gây nên tình trạng hổn loạn về chính trị và khủng hoảng
về lảnh đạo [miền Nam không có lảnh đạo nữa (do Mỹ xác nhận)], lên nắm chính
quyền, rồi tự cho là “quân lực” có công ổn định chính trị và lập ra “ngày quân
lực” để tự đề cao. Nếu “quân lực” đừng làm phản, đừng giết vi Tổng Tư Lịnh của
họ là TT/NĐD, nhà lảnh đạo miền Nam, đừng gây xáo trộn chính trị và tạo khủng
hoảng lảnh đạo thì đâu cần “quân lực” ổn định chính trị? Còn khủng hoảng lảnh đạo
thì sao? Tìm đâu ra nhà lảnh đạo xứng đáng dám quyết tâm bảo vệ chủ quyền và chính
nghĩa quốc gia, dù phải hy sinh tính mạng như TT/NĐD?
“Ngày Quân Lực” 19 tháng 6 là để tri ân và vinh danh những chiến sĩ của
QLVNCH đã “vị quốc vong thân” thì rất đúng, xứng đáng và danh chánh ngôn thuận.
Chúng ta chỉ nên kỷ niệm “Ngày Quân Lực 19 tháng 6” trong ý nghĩa này và chỉ
trong ý nghĩa này mà thôi!
Nhưng nếu “ngày quân lực” là để cám ơn và tuyên
dương mấy ông tướng đảo chánh (không phải là đại diện cho QLVNCH) thì nghe kỳ
quá! Nhục quá! (giống như cám ơn và tuyên dương Lê Chiêu Thống). Muốn Nhân Dân
và Tổ Quốc Việt Nam cám ơn “một bọn giết mướn đáng nguyền rủa” hay “những tay sai
bản xứ” của ngoại bang thì phải chờ tới Tết…Congo!
Có nhiều sự trùng hợp hết sức kỳ lạ giữa hành
động của Lê Chiêu Thống (LCT) và mấy ông tướng đảo chánh (TĐC):
LCT:
cầu cứu ngoại bang (Mản Thanh, Tàu)
TĐC:
làm tay sai bản xứ cho ngoại bang (Hoa Kỳ, Mỹ)
LCT:
rước voi về dày mã tổ (hay cổng rắn về cắn gà nhà).
TĐC:
để cho voi vào dày mã tổ (hay để cho rắn vào cắn gà nhà)
LCT:
rước 290,000 quân Thanh vào nước
TĐC:
không ngăn cản 543,000 quân Mỹ vào nước.
LCT:
vua bù nhìn. Mọi việc đều do Tôn Sĩ Nghị (nhà Thanh) quyết định.
TĐC:
tổng thống bù nhìn. Mọi việc đều do Mỹ quyết định.
LCT:
quân Thanh tháo chạy về Tàu, LCT chạy theo về Tàu
TĐC:
quân Mỹ tháo chạy về Mỹ, TĐC chạy theo về Mỹ (hay một nước khác, không
phải là Việt Nam).
LCT:
chết ở ngoại quốc (Tàu)
TĐC:
chết ở ngoại quốc (Mỹ) (hay một nước khác, không phải là Việt Nam)
Sau đây là đánh giá của Mỹ về tướng lảnh đảo
chánh của miền Nam:
“ Tướng lảnh (đảo
chánh) chỉ là những tay sai bản xứ, “gọi dạ bảo vâng”, cười trước các máy quay
phim, nhưng lo lắng và chờ đợi tiền và chỉ thị từ Washington, thủ đô mới của miền
Nam Việt Nam”
(theo Sử gia Richard Reeves của Mỹ) (Hội Đồng
An Ninh Quốc Gia Hoa Kỳ cũng xác nhận như vậy).
Nhân Dân và Tổ Quốc Việt
Nam có thể nào cám ơn và vinh danh những Tướng Lảnh (đảo chánh) như thế này không?
Chính họ đã phản Quốc, làm nhục Quốc thể, và làm mất nước (tội đáng “tru di tam
tộc”)! Vậy mà cũng có những tổ chức tại thủ đô tị nạn người Việt hải ngoại kỷ
niệm và vinh danh họ! Ở cái xứ tự do nhứt
thế giới này thì ai cũng có quyền tự do phát biểu ý kiến và tự do hành động
“ngu” hay “ngớ ngẩn”, “điên khùng”!
Họ chính thực là bọn “Việt Gian” bán nước, vọng
ngoại, lừa thầy phản bạn, ếch ngồi đáy giếng, con ếch muốn to bằng con bò, không
biết người biết ta, ăn hại đái nát, xem chuyện quốc gia đại sự như một canh bạc,
ích kỷ, thiển cận, chỉ biết nghĩ tới tự ái và quyền lợi nhỏ nhoi cá nhân mà quên
đi danh dự và quyền lợi tối thượng của tổ quốc…
Vì một cái hamburger
hay một cái hot dog họ đã nhẫn tâm giết chết vị anh hùng dân tộc (TT/NĐD) mà có
lẻ cả 100 năm nữa VN mới tìm được (lời của TT/Tưởng Giới Thạch của THDQ hay Đài
Loan). Họ chính là “những con giòi Việt Nam!
Những con giòi Việt Nam
này hợp với những
con giòi Mỹ tạo thành
“giòi trong ruột giòi ra” của miền Nam, phá tan lục phủ ngủ tạng
cuả miền Nam và cuối cùng giết chết miền Nam!
[đâu cần CSBV dùng vũ lực
xâm chiếm (chỉ là cái cớ), miền Nam cũng đã bị “giòi trong ruột giòi ra” giết
chết rồi. CSBV chỉ chờ “sung rụng” thôi (bất chiến tự nhiên thành). Ngày “sung
rụng” (ngày Mỹ cắt hết viện trợ cho VNCH) thì Mỹ đã báo cho CSBV biết trước rồi],
CSBV chỉ cần đưa xe tăng, xe chở quân chạy vào tiếp thu Sàigòn đã bỏ ngỏ…vì Mỹ đã
làm cho Sàigòn hết đạn!].
Những cuộc xuống đường bất tận…Người xuống đường…Bàn
thờ xuống đường…
Quân Đội chỉa súng vào
nhau…Trong lúc các tướng lảnh đảo chánh và các chính khách đối lập đang bận lo xâu xé nhau thì
Quân
Mỹ thoải mái tự ý đỗ bộ vào miền Nam Việt Nam
(như một mảnh đất bỏ hoang) mà không cần có sự chấp thuận của Việt Nam hay một
Hiệp ước Phòng Thủ Song Phương ký giữa Mỹ và Việt Nam, mang theo tệ đoan xã hội
(đĩ điếm, con rơi, ma túy, ma cô, cần sa, bạch phiến, buôn lậu…) tự do phát triển
trong một nước không
có chủ quyền (quân Mỹ không bị lệ thuộc vào luật pháp
của Việt Nam).
“Người ngoại quốc cũng
đồng ý là đa số binh sĩ VNCH rất anh hùng, còn bộ phận lảnh đảo thì tồi tệ. Nhìn
chung, QLVNCH đã làm hết sức mình trong nhiệm vụ bảo vệ miền Nam, mặc dù bị bạc
đải và lảnh đạo sai lầm. Ít nhất cũng còn một số Tướng Lảnh và Sĩ Quan Cao Cấp
giữ được tư cách, tác phong của kẻ sĩ, yêu nước, có lý tưởng. Khi phục vụ đã tận
tình vì nước. Khi mất nước đã tự sát để nêu cao khí tiết. Những người còn sống
bị tù đày nhưng không đầu hàng tư tưởng tuy không khỏi có một số hèn nhát làm
tay sai cho địch” (quên xuất xứ, xin cáo lỗi cùng tác giả).
(Trong số những người tử tuất, dường
như không có tướng lảnh đảo chánh?)
“Ngày Quân Lực” chắc chắn
không phải để vinh danh những ông tướng đảo chánh “bỏ nước, bỏ đơn vị, bỏ lính
chạy lấy người”, “đào ngủ trước địch quân”, và “ phản bội đồng đội” này!
Thật sự rất khó cho người
lính của miền Nam chiến đấu dủng cảm khi miền Nam đã mất chủ quyền và tình trạng
xáo trộn ở hậu phương, nên sự chiến đấu của họ không còn chính nghĩa và tập
trung nữa. Dưới thời TT/NĐD, VNCH có chủ quyền, có tôn ti trật tự, người lính QLVNCH
có chính nghĩa (bảo vệ VNCH) và tập trung tinh thần chống quân ngoại xâm CSBV nên
người lính QLVNCH đã anh dủng chiến đấu không thua bất cứ quân lực nào trên thế
giới, và đang trên đà chiến thắng du kích quân CS (90% cán bộ CS tại miền Nam bị
tiêu diệt, theo Bộ Chính Trị của CSBV). Khi Mỹ tự ý đỗ quân vào miền Nam Việt
Nam làm cho miền Nam mất chủ quyền thì người lính miền Nam làm gì còn chánh nghĩa
để chống ai? Mỹ đã giúp cho CSBV có lý do hô hào “đánh Mỹ cứu nước”,
chứ không còn là kẻ xâm lăng miền Nam nữa! CSBV “đánh Mỹ cứu nước” chứ đâu có đánh
hay xâm lăng miền Nam! Mất chủ quyền và mất luôn chánh nghĩa thì còn tinh thần đâu
để đánh giặc? Mỹ đã biến người lính miền Nam thành người lính đánh thuê cho Mỹ!
(như CSBV có lý do để rêu rao và tuyên truyền).
Cái đau là ở chỗ đó!
Ta có chủ quyền mà không biết giữ. Ta
có chính nghĩa mà không biết bảo tồn.
Ai sẽ làm thế cho ta? Tất cả những thứ ấy (chủ
quyền và chính nghĩa) là của Tổ Quốc Việt Nam, chứ không phải của riêng ai (mọi
công dân Việt Nam, nhất là nhà lảnh đạo Việt Nam có nhiệm vụ, bằng mọi giá, phải
bảo vệ chúng) đã bị “một bọn giết mướn đáng nguyền rủa” (lời của Tổng Thống
Johnson gọi các tướng lảnh đảo chánh Việt Nam) dâng cho Mỹ để lập công. Ai lảnh
đạo? Lảnh đạo ai? Lảnh đạo cái gì?...khi
mọi việc trong nước đều do Mỹ quyết
định?
(do Mỹ xác nhận).
Nếu không có “một bọn
giết mướn đáng nguyền rủa”, hay “những tay sai bản xứ” thì
dù Mỹ có muốn lật đỗ
hay ám sát TT/NĐD, Mỹ cũng không làm được!
[thí
dụ điển hình là Mỹ cũng muốn lật đỗ hay hạ sát các lảnh tụ Cộng Sản hay những
chính phủ chống Mỹ, nhưng họ đâu có làm được vì họ không tìm được “một bọn giết
mướn đáng nguyền rủa” hay “những tay sai bản xứ” của CS hay của những chính phủ
chống Mỹ (không tìm được không có nghĩa
là không có, vì loại này ở đâu cũng có. Muốn tìm được loại này vốn là loại “giòi
trong ruột” thì phải vào ruột mới tìm được, mà Mỹ thì không thể vào ruột các nước
CS hay những nước chống Mỹ được, chỉ có thể chui vào ruột của những đồng minh bé
nhỏ) để làm việc đó]
Tổ Quốc Việt Nam ơi! Tại
sao đã sinh ra một Ngô Đình Diệm mà còn sinh ra chi “một bọn giết mướn đáng
nguyền rủa”?
Đồng Minh thì phải giúp
Đồng Minh, tạo điều kiện và yểm trợ cho Đồng Minh đánh và chiến thắng kẻ thù chứ
sao lại đi bắt tay với kẻ thù để hại Đồng Minh?
Mỹ giúp CSBV bằng cách cắt viện trợ
quân sự để bức tử miền Nam trước khi giao miền Nam cho CSBV
như đã thỏa thuận trước
với CSBV để đổi lấy việc rút quân trong danh dự và một “khoảng cách hợp lý”
(decent interval) để khỏi mang tiếng là:
“Mỹ bại trận”, “Mỹ bỏ chạy”, “Mỹ phản bội” “Mỹ
làm mất miền Nam” và “Mỹ bán đứng” miền Nam cho CSBV”,
và để đỗ lỗi cho chính phủ Sàigòn bất lực.
chính phủ Sàigòn bất lực
đó là ai?
Là “bọn giết mướn đáng
nguyền rủa”, là “những tay sai bản xứ”, là nhóm phản tướng đảo chánh do CIA Mỹ
dựng lên. Trong số những tay sai bản xứ do CIA Mỹ đưa ra để lảo đạnh miền Nam nếu
có kẻ tỏ ra hơi cứng đầu cứng cổ một chút thì bị Mỹ nhắc nhỏ : “Mỹ không muốn
phải giải quyết như vụ TT/NĐD” một lần nữa (tức lật đổ và ám sát). Sau đó thì đâu
cũng vào đấy: “ngoan ngoản dễ bảo” hay “gọi dạ bảo vâng”. Không phải ai cũng dám
cương quyết bảo vệ chủ quyền và chính nghĩa quốc gia, dù phải hy sinh tính mạng,
dù phải “vị quốc vong thân” như TT/NĐD! Khác nhau ở chỗ đó giữa nhà ái quốc chân
chính (TT/NĐD) và đám Tướng lảnh đảo chánh phản quốc hay “bọn giết mướn đáng
nguyền rủa” hay “những tay sai bản xứ” của ngoại bang!
Không thể vừa vinh danh TT/NĐD vừa
vinh danh những kẻ phản chủ đã giết TT/NĐD là vị Tổng Tư Lịnh của họ!
Nước Mỹ vĩ đại đã hại đồng
minh bé nhỏ VNCH như thế nào? Thật đau lòng khi phải nhìn nhận sự thật phủ phàng
này! Tài liệu của Ngủ Giác Đài (The Pentagon Papers), quyển II, trang 207 xác
nhận như sau:
“…Sự đồng lỏa của chúng
ta (Mỹ) trong việc lật đỗ ông ta (TT/NĐD) làm tăng trách nhiệm của chúng ta vào
một nước Việt Nam không
có lảnh đạo nữa”
Thật sự thì “không phải
sự đồng lỏa của chúng ta (Mỹ)” mà là “sự chủ mưu của chúng
ta (Mỹ)” (theo Hội Đồng An Ninh Quốc gia Hoa Kỳ). Dù sao,
chính người Mỹ cũng phải
nhìn nhận là sau khi TT/NĐD nằm xuống, miền Nam Việt Nam không có lảnh đạo nữa.
Sự thật phủ phàng này cho chúng ta thấy là, mặc
dù không ưa TT/NĐD, nhưng Mỹ cũng vẫn phải công nhận TT/NĐD là
“nhà lảnh đạo” của VNCH, còn “một bọn giết mướn
đáng nguyền rủa” và những chính trị gia đối lập, mặc dù là tay sai bản xứ đắc lực
của Mỹ, gọi dạ bảo vâng, nhưng không có ai xứng đáng là “nhà lảnh đạo” của nước
Việt Nam!
“Chúng ta (người Mỹ) đã
không tiên liệu được những hậu quả tai hại xảy ra sau khi ra lệnh đảo chánh vị
Tổng Thống đáng kính và có khả năng Ngô Đình Diệm”
(lời nói của Tổng Thống Nixon của Mỹ).
Cố vấn quân sự cao nhất của Tổng Thống Mỹ
Kennedy là Tướng Maxwell Taylor đặt câu hỏi tromg một buổi họp các cố vấn của
Kennedy:
“Có thể chúng ta không
thắng được (CS) với sự ủng hộ Diệm, nhưng nếu không có Diệm thì
có ai?”
Không có ai trả lời được
câu hỏi hóc búa này, chỉ có một sự im lặng nặng nề.
(Thật sự thì không có Diệm, Mỹ cũng không thắng
được CS, ngay cả khi Mỹ, trên thực tế (sau ngày 01/11/1963) đã “cai quản miền
Nam” và xử dụng tới 543,000 quân thiện chiến Mỹ, nên đổ thừa cho Diệm thì quả tội
nghiệp cho Diệm) (lý lẻ của kẻ mạnh?). “Qui veut noyer son chien, l’accuse de
rage” (ai muốn trấn nước (giết) con chó của mình, chỉ cần nói “nó điên”). Về phương
diện này thì it có ai có thể so sánh với Mỹ, chuyên môn đạo diển!
Như vậy là Mỹ đã thấy trước “lỗ trống lảnh đạo”
ở miền Nam Việt Nam nếu TT/NĐD không còn nữa, nhưng vẫn tiếp tục ra lệnh lật đỗ
và ám sát TT/NĐD, và
lợi dụng “lỗ trống lảnh đạo” đó để
mặc tình thao túng “một nước Việt Nam không có lảnh đạo” nhằm phục vụ quyền lợi
của Mỹ!
Các Tướng Lảnh đảo chánh
có biết Mỹ khinh khi họ như thế này không? Chắc là không, vì nếu biết, chắc họ
không chịu nhục, làm tay sai bản xứ của Mỹ để lật đỗ và ám sát TT/NĐD?
Chưa chắc! Còn phải hỏi lại! Với thành phần này
thì họ có thể giết vị tổng tư lịnh của họ vì một cái hamburger hay một cái hot
dog! Còn danh dự? Họ làm gì có danh dự? Nếu có, họ đã không thể làm tay sai bản
xứ cho ngoại bang để phản quốc và ám sát vị anh hùng dân tộc TT/NĐD!
Sau khi TT/NĐD đã “vị
quốc vong thân”
vì quyết tâm bảo vệ chủ
quyền quốc gia và chính nghĩa của VNCH,
vì đã xử sự như là Tổng Thống của một nước có
chủ quyền,
vì không muốn VNCH là một nước bị (Mỹ) bảo hộ,
“người Mỹ đã thực sự cai quản đất nước
Nam Việt Nam” (sau ngày 01/11/1963)
(theo Sử Gia Richard
Reeves của Mỹ viết trong cuốn sách “President Kennedy, Profile of Power”, trang
651)
Giờ đây, người Mỹ đã được
toại nguyện (vì
trước đây, TT/NĐD đã không để cho Mỹ cai quảnVNCH).
Mỹ đã trúc hàng triệu
triệu tấn bom, hàng triệu triệu viên đạn và chất nổ đủ loại, tiêu thụ hàng triệu
triệu tấn nhiên liệu và tiếp liệu, thuốc khai hoang, phi cơ, tàu chiến, xe tăng,
pháo binh, hỏa tiển, vv…(nhiều hơn cả Thế Chiến I và II) trên đất nước nhỏ bé của
Miền Nam Việt Nam để yểm trợ cho hơn nửa triệu quân viển chinh Mỹ (không ai mời
mà tới)…Số vũ khí chiến cụ, quân cụ, tiếp liệu và nhiên liệu này đã được đặt
mua sẳn với các vua vũ khí, chiến cụ, quân cụ , tiếp liệu và nhiên liệu của Mỹ
tốn hàng tỷ tỷ đô la, nếu không tiêu thụ thì phải làm sao?
Và phải tiêu thụ ở đâu? Còn chỗ nào thích hợp
hơn là
một nước bỏ ngỏ như miền Nam Việt Nam đang
có chiến tranh chống lại sự xâm lăng và bành trướng của khối CS qua CSBV? Vừa hợp tình, hơp lý, lại danh chánh ngôn thuận.
Với chiến thuật “Search
& destroy” (“Tìm Kiếm và Tiêu Diệt địch”: Mỹ đánh giặc, Việt Nam giữ an
ninh diện địa), Mỹ tin là với 543,000 quân thiện chiến và hỏa lực hùng hậu của
họ, Mỹ sẽ dẹp tan quân CSBV tại miền Nam trong vòng hai (02) năm. Nhưng sau tám
(08) năm (1965-1973) áp dụng chiến thuật này mà quân CSBV tại miền Nam
vẫn chưa chịu tan rả, trái lại còn tăng thêm
về số lượng và trang bị, Mỹ cảm thấy thấm mệt và mất tự tin, bèn tìm cách rút quân trong
danh dự, đơn phương, vô điều kiện bằng Hiệp Định Paris 1973, và bỏ rơi miền Nam
Việt Nam. Để tránh bị mang tiếng là tháo chạy và phản bội Đồng Minh bé nhỏ Việt
Nam, Mỹ đã thảo luận với CSBV để cho Mỹ một thời gian từ 1 năm rưởi tới 2 năm gọi
là “decent interval” (khoảng cách hợp lý) sau Hiệp Định Paris 1973 trước khi xâm
chiếm miền Nam bằng vũ lực (để Mỹ chạy tội làm mất miền Nam và để Mỹ đỗ lỗi cho
chính quyền Sàigòn bất lực). (Mỹ đã hứa giao miền Nam Việt Nam cho CSBV từ trước
rồi, Hiệp Định Paris 1973 chỉ để hợp thức hoá lời hứa của Mỹ và cho Mỹ có lý do
rút quân trong danh dự vì đã có hòa bình ở Việt Nam rồi). Khoảng gần hai (02) năm
sau Hiệp Định Paris 1973 (decent interval, khoảng cách hợp lý, do Mỹ yêu cầu),
ngày 13 tháng 12, 1974, CSBV tấn công Phước Long để thăm dò xem Mỹ có can thiệp
không? Không thấy phản ứng bằng quân sự nào của Mỹ nên ngày 10 tháng 03, 1975,
CSBV dùng 25,000 quân tấn công Ban Mê Thuột do 4,000 lính miền Nam phòng thủ để
mở màng cho kế hoạch xâm chiếm miền Nam bằng vũ lực (mà Mỹ đã đồng ý trước với
CSBV)…Quân CSBV được Nga Sô và Trung Cộng hiện đại hóa và yểm trợ tối đa (Nga:
1973 viện trợ 1 tỷ 200 triệu Mỹ kim;
1974: 1 tỷ 700 triệu Mỹ kim (theo La mort du Vietnam: Cái chết của Việt Nam,
trang 51-53 của Vanuxem) và TC: 14 tỷ đô la và 350,000 quân từ năm 1954 (trận Điện
Biên Phủ) đến năm 1974 (theo The VC and the NVA: VC và CSBV trang 244 của
Michael Lee Lanning và Dan Cragg) khiến quân
đội CSBV trở thành quân đội hùng mạnh thứ năm (05) trên thế giới)…trong lúc
QLVNCH bị Mỹ cắt giảm viện trợ trầm trọng [từ 2.1 tỷ năm 1973 còn 1.4 tỷ năm
1974 và chỉ còn 700 triệu năm 1975 trong đó phân nửa là chi phí chuyên chở
(shipping fees)], thiếu thốn mọi thứ…bom đạn, nhiên liệu, bộ phận thay thế, quân
nhu, quân cụ… phi cơ, tàu bè, chiến xa, quân xa theo nhau nằm ụ, không xử dụng được…VNCH
đang giẫy chết…Tổng Thống Ford xin viện trợ khẩn cấp $300,000,000 để cứu VNCH,
nhưng Quốc Hội Mỹ đã từ chối…(phải từ chối, vì đó là kế hoạch đã được sắp đặt sẳn
từ trước để bức tử VNCH!).
Và, “chuyện
gì phải đến, đã đến”.
Ngày 30 tháng 04, 1975, Tổng Thống Dương Văn
Minh ra lệnh cho QLVNCH buông súng vì hết… đạn!
VNCH không còn nữa vì sau hai chục (20) năm đặt
hết tin tưởng vào Đồng Minh vĩ đại Hoa Kỳ để chống Cộng và làm tiền đồn chống Cộng
cho Thế Giới Tự Do, VNCH đã bị Mỹ phản bội, bắt tay với kẻ thù, bỏ rơi và trắng
trợn giao cho CSBV sau khi bóp cổ chết một cách tức tưởi!!!
VNCH
đã bị Mỹ bức tử!
Mặc dù Mỹ cố tình che dấu
hành động thiếu lương tâm và kém đạo đức của mình bằng Hiệp Định Paris 1973, nhưng
“vải thưa không che được mắt Thánh”, nên cả Thế Giới (Tự Do, Cộng Sản, Trung Lập…)
đã theo dỏi, chứng kiến và thấy rỏ sự phản bội của Mỹ ở Việt Nam, sau 20 năm là
Đồng Minh lớn nhất của Việt Nam…Mỹ đã siết cổ Việt Nam bằng cách siết (cắt giảm)
viện trợ quân sự…rồi cuối cùng cắt hẳn viện trợ quân sự…Việt Nam hết đạn…phải
buông súng…giúp cho CSBV “bất chiến tự nhiên thành” (không đánh cũng thắng). Xin
nhắc lại lời nói của Thủ Tướng Cao Miên là Sirik Matak (vài ngày trước khi bị
quân Khờ Me Đỏ bắt và hành quyết) để suy gẫm:
“…Tôi chỉ ân hận là đã phạm một sai
lầm lớn khi đặt lòng tin tuyệt đối vào người Mỹ”
và của Thủ Tướng
Pakistan là Ayoub Khan:
“Làm đồng minh với Hoa
Kỳ rất nguy hiểm, tốt hơn nên Trung Lập hay làm Kẻ thù”
Kissinger khuyên Tổng
Thống Johnson không nên trả thù Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu để tránh mang tiếng:
“Rất khó làm kẻ thù của
Mỹ, nhưng làm đồng minh của Mỹ thì chết chắc”
Ai
còn có thể tin Mỹ hay dám làm Đồng Minh với Mỹ nữa? Uy tín của Mỹ trên thế
giới đã tuột dốc thê thảm!
Trong sáu (06) năm liên
tiếp sau khi Mỹ phản bội, bỏ rơi và bức tử Việt Nam, những con cờ domino của Mỹ
sau đây lần lượt ngã đổ vì mất lòng tin với Mỹ :
Lào, Cao Miên, Mozambique (1975),
Angola (1976),
Ethiopia (1977),
South Yemen (1978),
Nicaragua (1979).
Đến năm 1981, Tổng Thống Reagan mới
chận đứng được cái đà thất bại chính trị ghê gớm trên Thế Giới này của Mỹ.
C. SUY GẪM VỀ NGÀY QUỐC HẬN 30 THÁNG 04
HẬN AI?
HẬN GÌ?
Trước khi trả lời hai
(02) câu hỏi trên, chúng ta thử định nghĩa:
HẬN
là gì?
THÙ
là gì?
Một cách định nghĩa đơn
giản và dể hiểu để so sánh HẬN và THÙ:
HẬN:
Vừa Thương vừa Ghét hay Thương trước rồi Ghét
sau.
THÙ: Chỉ có Ghét, không có Thương, dù trước hay
sau.
Ngày quốc hận 30 tháng 04, chúng ta hận ai?
CSBV? Không! Chúng ta không hận CSBV
vì có bao giờ, trước cũng như sau, chúng ta thương CSBV đâu? Chúng ta thù CSBV!
Vậy chúng ta hận ai?
Để dể hiểu hơn, chúng
ta thử hỏi và trả lời những câu hỏi sau đây:
Kỷ
niệm 38 năm Sàigòn bị bức tử
Hỏi: Sàigòn bị bức tử ngày nào?
Đáp: Ngày 30 tháng 04, 1975
Hỏi: Ai bức tử Sàigòn?
Đáp: Đồng Minh Hoa Kỳ! (CSBV là “kẻ thù”, chỉ có
“thắng” hay “bại” chứ không thể “bức tử” được.
Chỉ có “người nhà” và “có quyền” mới “bức tử” được.
Mỹ là Đồng Minh lâu đời (20 năm) và quan trọng nhất của Việt Nam nên được xem
như “người nhà”. Mỹ “có quyền” và “có nhiệm vụ” (như đã hứa) viện trợ hay giúp phương
tiện cho đồng minh Việt Nam chống giặc xâm lăng (CSBV).
Mỹ cắt viện trợ thì Việt Nam sẽ không có phương
tiện để chống quân xâm lăng (CSBV), Việt Nam sẽ chết… vì không còn
đạn dược và phương tiện để chiến đấu, mà đáng lý ra Việt Nam không chết
nếu Mỹ không cắt viện trợ.
Hành động cắt viện trợ của Mỹ vào
giờ chót, trong lúc địch đang tấn công, là hành động bức tử Việt Nam.
Hỏi: Nếu ngày 30 tháng 04, 1975
được chọn là ngày Quốc Hận thì chúng ta hận ai?
Đáp: Chúng ta hận Đồng Minh Hoa Kỳ đã bức
tử chúng ta và bọn tay sai bản xứ đã đưa Việt Nam đến chỗ diệt vong.
[theo định nghĩa trên đây
thì chúng ta không thù Mỹ và bọn tay sai bản xứ (vì trước đây khi chưa bị Đồng
Minh Hoa Kỳ và bọn tay sai bản xứ phản bội, bức tử, chúng ta có thương và mang ơn
Đồng Minh Hoa Kỳ và bọn tay sai bản xứ (vì trước đó, họ thuộc QLVNCH và chúng
ta nhớ ơn QLVNCH)].
Bây giờ thì chúng ta hiểu
tại sao người Mỹ muốn đổi ngày Quốc Hận 30 tháng 04, 1975 thành ngày Nam Việt
Nam hay ngày VNCH hay ngày gì khác hơn là ngày Quốc Hận? Bởi vì,
ngày nào mà người Việt Nam còn kỷ
niệm ngày Quốc Hận 30 tháng 04 thì ngày đó người Việt Nam vẫn còn hận Mỹ!
(còn người Việt Nam hận
bọn tay sai bản xứ hay không thì Mỹ “không cần để ý”)
Chúng ta hận gì?
Chúng ta hận Đồng Minh Hoa
Kỳ, vì quyền lợi riêng tư, đã bắt tay với kẻ thù, phản bội, bỏ rơi, bức tử miền
Nam, khiến chúng ta bị nước mất, nhà tan,…
·
đã lùa mấy chục triệu người dân vô tội của
miền Nam vào gông cùm của chế độ độc tài, đảng trị CSBV dả man, tàn ác, vô nhân
đạo,…
·
đã khiến mấy triệu người Việt Nam phải bỏ nước
ra đi tị nạn CS và phải tha phương cầu thực,…ngày trở về cố hương …vô định!
·
đã chụp mũ QLVNCH là hèn nhát, bại trận,
thua CSBV,…
·
đã lấy mất cơ hội để QLVNCH chiến đấu với
CSBV mà vẫn bị mang tiếng là kẻ chiến bại (có đạn dược và phương tiện để chiến
đấu đâu mà chiến bại? Bị “bức tử” thì đúng hơn!)
Tuy nhiên, dù sao đi nữa,
dù bị bức tử (trường hợp giảm khinh), QLVNCH cũng không thể hoàn toàn phủ nhận có
lỗi với nhân dân Việt Nam vì đã không hoàn thành nhiệm vụ do người dân giao phó
là bảo vệ tổ quốc Việt Nam. “Cảm tưởng tội lỗi” này là hình phạt tệ hại và nặng
nề nhất cho QLVNCH khi bị đồng minh bức tử! QLVNCH vẫn còn cơ hội để chuộc tội
một phần nào, không phải bằng vũ lực, mà bằng cách ngồi lại với nhau tạo thành
một tổ chức có kỷ luật (đã quen rồi), có thực chất để yểm trợ cho người dân
trong nước đứng lên theo cách mạng “Hoa Lài” lật đổ chế độ độc tài CS).
Chúng ta hận Đồng Minh
Hoa Kỳ đã mua chuộc và xử dụng “một bọn giết mướn đáng nguyền rủa” làm tay sai
bản xứ để lật đỗ và ám sát TT/NĐD, vị anh hùng dân tộc của Việt Nam.
·
gây ra tình trạng hổn loạn về chính trị
và khủng hoảng về lảnh đạo (Mỹ xác nhận:
miền Nam không có lảnh đạo nữa sau ngày 01/11/1963),
đưa
tới ngày diệt vong của miền Nam Việt Nam (30/04/1975).
Chúng ta hận Đồng Minh
Hoa Kỳ đã đem quân tác chiến trực tiếp can
thiệp vào miền Nam (khiến cho miền Nam mất chủ quyền và mất luôn chính nghĩa)
thay vì chỉ cần viện trợ cho VNCH vũ khí, đạn dược cùng các phương tiện chiến đấu
cần thiết để tự vệ chống quân xâm lăng CSBV.
·
Về điểm này, phe đảo chánh ngày
01/11/1963 phải hoàn toàn chịu trách nhiệm với Tổ Quốc và Nhân Dân Việt Nam vì
chính họ đã chịu làm tay sai bản xứ cho ngoại bang để giết vị anh hùng dân tộc
(TT/NĐD), chính họ đã làm mất chủ quyền và chính nghĩa quốc gia (mà TT/NĐD quyết
tâm bảo vệ dù phải hy sinh tính mạng) khi để cho 543,000 quân Mỹ đổ bộ vào Việt
Nam, và cuối cùng làm mất nước vì chính họ đã để cho Mỹ thực sự cai quản miền
Nam từ sau ngày 01/11/1963 tới ngày 30/04/1975 (do Mỹ xác nhận) trước khi Mỹ
giao miền Nam cho CSBV năm 1975 (vì Mỹ là chủ nhân ông của miền Nam). Như vậy,
có phải ngày 01/11/1963 là nguyên nhân gây ra ngày
30/04/1975 không?
·
[QLVNCH có thừa khả năng tự vệ nếu có đủ
phương tiện. Năm 1960 (tức dưới thời TT/NĐD), nhiều nhà quân sự tài giỏi trên
thế giới đã cùng đồng ý công nhận : “Quân Đội VNCH là một trong những đạo quân
mạnh nhứt Á Châu, tinh thần, kiên cường, kỷ thuật, kỷ luật, hy sinh… mạnh hơn rất
nhiều quốc gia trong vùng (kể cả CSBV).
Chúng ta hận Đồng Minh
Hoa Kỳ đã không cứu vớt tất cả dân tị nạn CS của miền Nam Việt Nam trong tháng
04, 1975 tại Saigon
·
với
chiến dịch “ngọn gió thường xuyên” (Operation “Frequent Wind”) gồm khoảng 50
chiến hạm đủ loại (gần nguyên cả Hạm Đội 7 của Mỹ) trong đó có 5 HKMH và một số
thương thuyền, thừa khả năng để làm chuyện đó và đang hiện diện ngoài khơi,
cách Vủng Tàu 17 hải lý (thay vì , với khả năng có thể cứu vớt cả triệu người, chỉ
cứu vớt khoảng 7,000 người Mỹ và những người làm việc cho Mỹ gồm đủ mọi quốc tịch).
Chúng ta hận Đồng Minh
Hoa Kỳ đã (03) lần từ chối yêu cầu của HQVNCH (là đồng minh lâu đời của Hoa Kỳ
(20 năm) tìm kiếm và cứu vớt thủy thủ đoàn của HQ10 đào thoát trên những bè cấp
cứu bị trôi giạt trên biễn
·
sau trận hải chiến Hoàng Sa ngày 19
tháng 01, 1974. Điều này đã vi phạm nặng nề “bổn phận tinh thần và nhân đạo”
“phải cứu vớt những người đang lâm nạn trên biển” (kể cả kẻ thù) của “những người
đi biển trên thế giới” đã có từ nhiều thế kỷ nay [từ ngày có người đi biển (bất
cứ nước nào trên thế giới)]. Một hành động “vô
nhân đạo”, “thiếu đạo đức” dù trong bất cứ xã hội nào trên thế giới.
Chúng ta hận Đồng Minh
Hoa Kỳ đã không giử lời cam kết bảo vệ sự thi hành nghiêm chỉnh Hiêp Định
Paris,
·
bằng Định Ưóc Quốc Tế ngày 02/03/1973 mà
Hoa Kỳ đã ký cùng với 11 quốc gia khác, hứa bảo vệ chủ quyền và sự vẹn toàn lảnh
thổ của Việt Nam khi ngày 19/01/1974, Trung Cộng (đã ký tên vào Định Ưóc Quốc Tế
ngày 02/03/1973) ngang nhiên xâm chiếm bằng vũ lực đảo Hoàng Sa của Việt Nam.
·
Đệ Thất Hạm Đội Hoa Kỳ có mặt gần đảo
Hoàng Sa, đã từ chối can thiệp giúp bảo
vệ chủ quyền và sự vẹn toàn lảnh thổ của Việt Nam đúng theo Định Ước Quốc Tế
ngày 02/03/1973 mà Hoa Kỳ đã ký cùng với 11 quốc gia khác.
D.GHI CHÚ:
Tại sao tác giả không muốn nhắc tới “Đệ Nhị Cộng Hoà” hay VNCH2?
Vì “Đệ Nhị Cộng Hòa” hay “VNCH2” là
khắc tinh của “Đệ Nhất Cộng Hoà” hay “VNCH”, là do “một bọn giết mướn đáng nguyền
rủa” dựng lên sau khi đã làm tay sai bản xứ cho Mỹ để lật đỗ Đệ Nhất Cộng Hòa
(VNCH) và ám sát TT/NĐD, vị anh hùng dân tộc, vị Tổng Thống đầu tiên và cũng là
sáng lập viên của Đệ Nhất Cộng Hoà (VNCH), vị Tổng Tư Lệnh của QLVNCH và là cấp
chỉ huy tối cao của họ. Đệ Nhị Cộng Hòa hay VNCH2 đã làm mất chủ quyền và chính
nghĩa quốc gia, làm nhục quốc thể, phản quốc, và cuối cùng làm mất nước!
(do
Mỹ xác nhận)
Họ cũng giết luôn những người trung thành với
TT/NĐD như HQ/Đại Tá Hồ Tấn Quyền (Tư Lệnh Hải Quân), Đại Tá Lê Quang Tung (Tư
Lệnh Lực Lượng Đặc Biệt kiêm Chỉ Huy Trưởng Liên Đoàn Liên Binh Phòng Vệ Phủ Tổng
Thống) cùng người em ruột là Thiếu Tá Lê Quang Triệu (Tham Mưu Phó Lực Lượng Đặc
Biệt), là chiến hữu của họ. Những người này thuộc loại người sắp bị diệt chủng,
còn rất it, rất khó tìm, và là bảo vật của quốc gia. Hành động này được gọi là
“Lừa
thầy Phản bạn”.
Đệ Nhị Cộng Hòa không
phải là tiếp nối của Đệ Nhất Cộng Hòa mà là khắc
tinh của Đệ Nhất Cộng Hòa.
·
Sau ngày 01/11/1963, VNCH2 đã tiêu diệt
tất cả công trình gây dựng trong chin (09) năm của VNCH (quốc sách Ấp Chiến Lược,
phát triển kinh tế, kỹ luật quân đội, diệt CS, lảnh đạo, tinh thần quốc gia, chủ
quyền và chính nghĩa quốc gia, v.v…), giao miền Nam cho Mỹ, và cuối cùng đưa miền
Nam vào con đường diệt vong.
·
VNCH2 đã làm mất chủ quyền và chính
nghĩa quốc gia, biến miền Nam thành một xứ bị bảo hộ (Mỹ đã thực sự cai quản miền
Nam vì mọi việc trong nước đều do Mỹ quyết định), mất sự hậu thuẩn
của nhân dân [vì không được bảo vệ an ninh (quân đội bận chỉa súng vào nhau vì
các tướng bận lo đảo chánh nhau, đâu còn thì giờ lo đánh giặc)], càng ngày dân
chúng bị bắt buộc phải ngã theo VC càng nhiều), biến QLVNCH thành lính đánh
thuê cho Mỹ, biến kẻ cướp CSBV thành người có chính nghĩa chống xâm lăng với
chiêu bài “đánh Mỹ cứu nước”.
·
Khi “bọn giết mướn đáng nguyền rủa” hay
“những tay sai bản xứ” có kẻ tỏ vẻ hơi cứng đầu một tí, Mỹ chỉ cần “dọa” là
không muốn phải giải quyết như đã giải quyết Tổng Thống Ngô Đình Diệm (lật đổ
và ám sát) thì “những tay sai bản xứ” trở thành ngoan ngoản, “gọi dạ bảo vâng”
ngay, vì bọn này chỉ “rất can đảm trong những trương hợp không nguy hiểm” thôi!
·
Nếu họ dám “vị quốc vong thân” thì họ đã
không làm tay sai bản xứ cho ngoại bang, đã không ám sát vị anh hùng dân tộc
Ngô Đình Diệm, đã không làm nhục quốc thể, đã không phản quốc, đã không làm mất
nước! Và gần 100 triệu đồng bào đã không phải sống trong gông cùm và nô lệ
CSBV.
VNCH2 quả thật là “Giòi trong ruột” của VNCH
·
Nếu
lập luận như Trung tá Mỹ (CIA) Conein: “Muốn làm trứng rán (chiên) thì phải đập
bể trứng”, lập luận này chỉ đúng nếu món trứng rán (chiên) thành công, tức ăn
ngon, bổ dưởng…Còn nếu trứng rán (chiên) bị cháy hay bị rớt xuống đất (tức
không ăn được và không bổ dưởng) thì có phải “uổng phí” trứng không? Nhất là
khi những trứng đó là những bảo vật vô giá của Tổ Quốc Việt Nam? Lẻ dỉ nhiên
Conein không cần biết vì Conein không phải người Việt Nam, nhưng còn “bọn giết
mướn đáng nguyền rủa” là người Việt Nam, thì
sao?
·
Không có trăng hay sao gì cả, vì đối với bọn
này, chỉ có quyền lợi cá nhân là quan trọng hơn cả, còn quyền lợi của Tổ Quốc và
Dân Tộc là chuyện xa vời, không tưởng…và không có trong từ ngữ của họ, “những
con giòi Việt Nam”!
Như chúng ta đã thấy, qua kinh nghiệm sống và
những tài liệu trên đây, và sự thật đau lòng (do Hoa Kỳ xác nhận) là sau ngày
01 tháng 11, 1963, sau khi TT/NĐD bị hạ sát,
·
“Việt
Nam là một nước không có lảnh đạo nữa” (theo Hội Đồng An Ninh Quốc
Gia Hoa Kỳ), không có chủ quyền,
không có chánh nghĩa.
·
“Tướng lảnh đảo chánh chỉ là những tay sai bản
xứ, gọi dạ bảo vâng, cười trước máy quay phim, nhưng lo lắng và chờ tiền và chỉ
thị từ Washington, thủ đô mới của miền Nam Việt Nam” ( theo
sử gia Richard Reeves của Mỹ) và “sẳn
sàng làm theo những lời cố vấn” (theo Marilin B. Young)
(dù chỉ có lợi cho Mỹ, nhưng rất tai hại cho Quốc Gia, Dân Tộc Việt Nam).
·
“Những nhân viên tình báo của CIA như…
(xin dấu tên, nhưng chắc ai cũng đã biết) được Hoa Kỳ đưa ra lảnh đạo miền Nam
(đúng với câu “không có chó bắt mèo ăn c…”, không phải là “ nhà lảnh đạo” thì
làm sao “lảnh đạo” được? (Mỹ đã nhìn nhận là Việt Nam không còn lảnh đạo nữa), đã
để mất chủ quyền quốc gia, đưa miền Nam đến ngày 30 tháng 04, 1975” (theo
Marilin B. Young).
Người Mỹ, trên thực tế,
đã cai quản đất nước Việt Nam” (sau ngày 01 tháng 11,
1963) (theo Sử gia Richard Reeves của Mỹ)…
Điều này đã không thể xảy
ra dưới thời Đệ Nhất Cộng Hòa!
·
Người Mỹ, dưới thời TT/NĐD, mặc dù ghét
cay ghét đắng TT/NĐD (nên mới có đảo chánh và ám sát TT/NĐD), nhưng vẫn tôn trọng
TT/NĐD và vẫn xem TT/NĐD là “nhà lảnh đạo” VNCH.
·
Người Mỹ, sau ngày 01 tháng 11, 1963, đã khinh
khi ra mặt “bọn giết người đáng nguyền rủa”, chỉ xem họ như “kẻ ăn người ở
trong nhà” hay “tay sai bản xứ” chứ không xem họ như “nhà lảnh đạo” (Mỹ xác nhận:
Việt
Nam không có lảnh đạo nữa, sau khi TT/NĐD bị thảm sát).
Nếu bọn này (tướng lảnh đảo chánh)
có thể phản chủ và giết Tổng Thống và Tổng Tư Lệnh của họ được thì tại sao họ
không thể phản lại Hoa Kỳ?
·
Làm sao Mỹ (bản chất là một con cáo già)
có thể tin cậy họ được? Chỉ còn có cách kềm kẹp và kiểm soát họ thật sát để đề
phòng họ “phản” (Mỹ đã dùng hơn 500,000 quân thiện chiến của Mỹ để kềm kẹp “bọn
giết mướn đáng nguyền rủa” hơn là để dẹp tan quân CSBV tại miền Nam, cho nên
sau 8 năm “Tìm và Diệt địch”, Mỹ vẫn chưa dẹp tan được [Mỹ dự trù chỉ trong hai
(02) năm] quân xâm lăng CSBV (mà dường như còn nhiều hơn và trang bị tối tân hơn).
Nhục
Quốc Thể!
Việt Nam đã trở thành một nước bị bảo hộ! Và thủ đô mới của Việt Nam là
Washington!
·
Điều này đã không thể xảy ra dưới thời Đệ
Nhất Cộng Hòa, mặc dù cũng có áp lực rất mạnh (có thể còn mạnh hơn gấp bội) của
Mỹ (nên mới có đảo chánh và ám sát TT/NĐD). Sau ngày 01 tháng 11, 1963, “ bọn
giết mướn đáng nguyền rủa” hay “những
tai sai bản xứ” của Mỹ đã làm được ích lợi
gì cho Tổ Quốc và Dân Tộc Việt Nam ngoài tội “phản quốc” , “làm nhục Quốc Thể”,
“làm mất chủ quyền và chính nghĩa”, “mất dân” và cuối cùng, “mất nước”? (do Mỹ xác
nhận).
Khi “luận tội” thì không
nên quên “luận công”. Nhưng so với “tội phản
quốc”, “tội làm nhục quốc thể” và “tội làm mất nước” là ba (03) tội tày trời (đáng
tru di tam tộc) thì những “công” của Đệ Nhị Cộng Hoà hay VNCH2, dù lớn hay nhỏ,
dù nhiều hay ít, cũng trở thành vô nghĩa. Vì lẻ đó, những thành tích của Đệ Nhị
Công Hòa hay VNCH2 (không phải là không có, nhưng đã trở thành vô nghĩa) đã không
được liệt kê ra đây như của Đệ Nhất Cộng Hòa hay VNCH.
Như vậy, ngày 30 tháng
04, 1975 là hậu quả tất nhiên của ngày 01 tháng 11, 1963
·
Nếu chúng ta gọi tháng 04, 1975 là tháng 04 đen thì nên gọi tháng 11, 1963 là
tháng 11 gì? Vì tháng 11, 1963, máu của TT/NĐD đã đỗ ra và nhuộm đỏ sàn chiếc
M113, xin đề nghị gọi tháng 11, 1963
là tháng 11 đỏ.
“Nếu
không có tháng 11 đỏ thì làm gì có tháng 04 đen?”
·
và làm gi mấy triệu người Việt Nam phải
bỏ nước ra đi tị nạn Cộng Sản? (trong lịch sử Việt Nam, chưa bao giờ dân Việt
Nam phải bỏ nước ra đi “tị nạn” nhiều như vậy, kể cả dưới thời thuộc địa, chứng
tỏ là CS còn tàn ác, nguy hiểm và đáng ghê sợ hơn cả thực dân và kẻ thù truyền
kiếp của Việt Nam).
·
và làm gì gần cả trăm triệu đồng bào Việt
Nam phải sống dưới gông cùm và nô lệ Cộng Sản?
Trên cán cân “Công” và
“Tội” của Đệ Nhị Cộng Hòa hay VNCH2, có lẻ cán cân sẽ nghiêng hẳn về “Tội”
·
Đó là lý do tại sao tác giả không muốn
nhắc tới Đệ Nhị Cộng Hoà hay VNCH2!
Ở đây, tại thủ đô tị nạn
của người Việt, có những tổ chức kỷ niệm và vinh danh cả hai (Đệ Nhất và Đệ Nhị
Cộng Hòa) tại cùng một địa điểm!
“Thế lày nà thế lào?”
Chỉ nên kỷ niệm và vinh
danh một trong hai, tùy theo lập trường của mình!
·
Nếu đã kỷ niệm và vinh danh Quang Trung
Đại Đế thì không nên kỷ niệm và vinh danh Lê Chiêu Thống, và ngược lại!
Nếu kỷ niệm và vinh
danh cả hai là…Ba phải! Thiếu lập trường! Thiếu hiểu biết! Thiếu thành thật! Đóng kịch hay làm trò hề? Làm để có làm, để “mà
mắt” thiên hạ, để chụp hình quay phim, để quảng cáo, nhưng thực sự không biết đang
làm gì và tại sao làm như vậy!
·
Cũng giống như Quang Trung Đại Đế vốn là
khắc tinh của Lê Chiêu Thống, Đệ Nhất và Đệ Nhị Cộng Hòa vốn là
khắc tinh của nhau, nên không thể gặp nhau tại cùng một
địa điểm do cùng một tổ chức!
Hay là “đi với bụt, mặc áo cà sa, đi với ma, mặc
áo giấy”?
·
Ai là bụt, ai là ma? Không cần biết? Chỉ cần:
“Vừa đi với bụt
vừa đi với ma
cho
tiện việc chính phủ… Congo?”
Tháng 10, 2013 (Mùa
Halloween, khó biết ai thật ai giả)
HTP2
Subscribe to:
Posts (Atom)